phan tich bai tho thuong vo cua tu xuong lop 11

Phân Tích Thương Vợ của Tú Xương - Thương vợ Trần Tế Xương là tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Thương vợ là bài thơ hay, tiêu biểu của nhà thơ Trần Tế Xương. Qua bài thơ Thương vợ lớp 11 tác giả đã khắc họa hình ảnh bà Tú là một người phụ nữ tần tảo tần tảo vun vén cho gia đình. Trong bài viết này, GrabHanoi xin chia sẻ đến bạn đọc phân tích bài Thương Vợ của Tú Xương, những bài văn mẫu phân tích bài Thương Vợ, cảm nhận bài thơ Thương Vợ hay và chi tiết nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung. và ý nghĩa của bài thơ Thương vợ.

1. Suy nghĩ về việc phân tích chi tiết bài thơ Thương vợ

Mở bài phân tích Thương vợ

Bạn đang xem: phan tich bai tho thuong vo cua tu xuong lop 11

- Giới thiệu sơ lược về Tác giả Tú Xương (1870 - 1907): một trong những tác giả viết trào phúng, hài hước với tư tưởng ly tâm Nho giáo.

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Thương vợ - một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.

Phân tích vợ yêu

* Phân tích 2 câu

Làm ăn quanh năm ở mom river

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

– Tình hình kinh doanh của chị Tú:

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không kể ngày này qua năm khác, mưa nắng.

+ Vị trí “mom sông”: phần đất nhô ra lòng sông không vững chãi -> khắc họa cuộc sống mưa nắng, cuộc sống cơ cực, neo người, bấp bênh, nguy hiểm, chật vật mưu sinh.

=> Tình hình công việc làm ăn vất vả, lên xuống thất thường, bấp bênh, ổn định.

- Lý do:

+ “no đủ nuôi”: săn sóc chu toàn -> nỗi khổ tâm, đau đớn của bà Tú phải làm lụng vất vả, cực nhọc, gánh vác ngược xuôi chỉ để nuôi đủ “năm người con với một chồng”.

+ “một chồng đủ năm con”: Một mình bà Tú phải nuôi cả nhà, không thiếu cũng không thừa.

-> Dùng con số duy nhất “một chồng” bằng “năm con”, ông Tú thừa nhận mình cũng là một đứa trẻ cá biệt. kết hợp với lối 4/3 thể hiện nỗi vất vả của vợ.

=> Hoàn cảnh ngang trái, gánh nặng gia đình đè nặng lên vai người mẹ, người vợ. Bản thân việc nuôi con là việc thường tình, nhưng bên cạnh đó, người phụ nữ còn phải chăm sóc chồng.

=> Bà Tú là người phụ nữ siêng năng, đảm đang, chu đáo với chồng con.

* Phân tích 2 câu thực

Lặn tìm cò nơi vắng

trên mặt nước vào mùa đông.

– Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú, nhưng sáng tạo hơn nhiều (đảo ngược từ lặn xuống đầu hoặc thay con cò bằng thân cò):

+ “Bơi”: Lũ lụt, cực nhọc, nhọc nhằn, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi sự vất vả, cô đơn khi làm ăn -> khắc họa nỗi đau thân phận, chung tình

+ “khi xa”: thời gian, không gian xa ngút ngàn, đầy lo âu, hiểm nguy

=> Nỗi vất vả của bà Tú càng được nhấn mạnh qua nghệ thuật ẩn dụ.

– Nỗi vật lộn với cuộc đời đầy neo người của bà Tú: “Cây rơm trên mặt nước mùa đông”:

+ ồm ồm: từ tượng thanh biểu thị sự đồng tình, phàn nàn khó chịu -> miêu tả cảnh mua bán, tranh cãi ở “nước”.

+ Đò đông đúc: Sự chen lấn, xô đẩy trong cảnh đông đúc cũng đầy nguy hiểm, đáng lo ngại.

-> Câu thơ gợi cảnh người dân buôn bán nhỏ trên sông nước.

=> Hiện thực cuộc sống mưu sinh của bà Tú: không gian và thời gian choáng ngợp, nguy hiểm, phải dầm mưa dãi nắng, phải tranh giành, phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt, đồng thời thể hiện niềm xót thương cho những da. cái chết của anh Tú.

* Phân tích 2 bài văn

Một duyên hai nợ

Năm nắng mười mưa dám quản công.

– “Một duyên hai duyên”: ý thức rằng lấy chồng là duyên nên “có bạc mệnh”, Tú Xương cũng tự ý thức mình là “món nợ” mà bà Tú phải gánh, không một lời từ chối. phàn nàn và im lặng. chấp nhận vất vả vì chồng con.

– “nắng mưa”: chỉ sự vất vả

– “ five”, “ten”: số nhiều của tính từ

– “Âu mệnh”, “Dám quản công”: dù thân phận bạc bẽo, bà Tú vẫn chấp nhận, cam chịu, không một lời oán thán.

-> Sự cần cù chịu khó, đức tính bao dung, chịu thương chịu khó, đầm ấm cho chồng con.

=> Hình ảnh bà Tú, một người vợ đảm đang với nhiều đức tính đáng quý: dũng cảm, cần cù, chịu thương, chịu khó, hi sinh thầm lặng cho hạnh phúc gia đình.

* Phân tích 2 câu kết

Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng hờ hững hay không?

Bất mãn với thực tại, Tú Xương chửi vợ:

+ “Cha mẹ có những thói hư tật xấu”: tố cáo thực trạng xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá chèn ép khiến người phụ nữ phải chịu nhiều vất vả.

-> Tiếng chửi mang ý nghĩa xã hội sâu sắc: thói bội bạc là căn nguyên khiến bà Tú đau khổ; Ông Tú thầm trách mình thẳng thắn, thấy mình vô dụng.

- Tự ý thức:

+ “Có chồng hờ”: Tú Xương tự nguyền rủa mình và cũng tự phán xét, lên án mình

-> Tú Xương ý thức được thói vô tâm của mình cũng là biểu hiện của thói đời.

– Nhận thấy mình có khuyết điểm, phải ở chung với vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.

-> Từ tình thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng nguyền rủa thói đời đen bạc.

=> Hai câu thơ đã đúc kết được tình thương vợ của ông Tú.

Hết phân tích Yêu vợ

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

+ Nội dung: Xây dựng thành công hình ảnh bà Tú - người vợ giàu đức hi sinh, cáng đáng gia đình với gánh nặng cơm áo gạo tiền trên đôi vai gầy. từ đó cũng cảm nhận được sự yêu thương, kính trọng vợ của Trần Tế Xương.

+ Nghệ thuật: Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, giàu biểu cảm; vận dụng sáng tạo những hình tượng, cách diễn đạt văn học dân gian; sự kết hợp hoàn hảo giữa trữ tình và trào phúng.

– Liên hệ, mở rộng: Suy nghĩ của em về người phụ nữ trong xã hội hiện nay.

2. Sơ đồ tư duy phân tích bài Thương vợ

3. Phân tích bài hát ngắn nhất Thương Vợ

Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, là một tác gia nổi tiếng với nhiều tác phẩm trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống đến 37 tuổi và học đến tú tài, nhưng sự nghiệp thi ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn, văn xuôi, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Thương vợ. Bài thơ ẩn chứa trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ Tú Xương viết như sau:

“Quanh năm làm ăn ở mom sông

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Lặn tìm cò nơi vắng

trên mặt nước vào mùa đông.

Một duyên hai nợ, một duyên

Năm nắng mười mưa, dám quản công

Cha mẹ thói đời bạc mệnh!

Có chồng hờ hay không!"

Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ, chia làm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi vế hai câu nhằm khắc họa sắc nét hình ảnh bà Tú - vợ Tú Xương, cũng như thể hiện phần nào hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa.

Ở hai đề, Tú Xương đã giới thiệu khái quát về tác phẩm của bà Tú. Là nghề kinh doanh “quanh năm” ở mẹ sông, nghề này không có cửa hàng hay vốn liếng nhiều. Đây là công việc nặng nhọc, vất vả, thu nhập bấp bênh, bà Tú vẫn cùng chồng “gà trống nuôi” 5 người con mà không một lời than thở. Trong câu này, tác giả tách mình ra một bên, một bên là con nhằm nhấn mạnh rằng, dù đỗ tú tài nhưng ông không được ra làm quan, phải gánh cả gánh nặng lên vai. vợ, người anh yêu. Câu thơ như một lời trách móc nặng nề của tác giả đối với chính mình nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được tình yêu mà Tú Xương dành cho người vợ của mình.

Để miêu tả cụ thể hơn những vất vả lao động của bà Tú, trong hai câu kết tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để chuyển thành “thân cò” để chỉ sự vất vả. của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày ở nơi “xa xôi”. Không chỉ vậy, Tú Xương còn tóm tắt một cách sinh động cảnh bán buôn trên sông quê mẹ của bà Tú qua câu “con nước ròng ngày đông”. Đó là hình ảnh bát nháo, tranh chấp của nhiều người có nghề như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú gặp nhiều khó khăn, vất vả.

Sự vất vả của bà Tú hẳn không dừng lại ở hai phần và nó thực sự tăng lên trong bài văn. Bằng cách sử dụng hai cụm từ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã cho thấy đức hi sinh cao cả của bà Tú, đó là chấp nhận số phận để chăm sóc chồng con và mình. Chiếc ô. Dù mưa hay nắng, đừng bỏ cuộc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ nói chung, đó là đức tính cần cù, dũng cảm, nhẫn nhịn, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn, kính trọng đối với bà Tú.

Cùng với sự kính trọng, biết ơn đối với bà Tú trong hai câu kết, hai câu cuối là một cách nói tình cảm của tác giả - Tú Xương. Tiếng thở dài về “lối sống” mà ông nhắc đến chính là xã hội lúc bấy giờ - một xã hội nửa tây, nửa tây, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng, đạo đức suy thoái. Bên cạnh, ông tự trách mình tại sao đi thi “ăn bạc” mà không đỗ đạt, không làm quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải khổ vì mình. Cuối cùng, tất cả được tóm gọn trong tiếng than buồn của Tú Xương

“Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tóm lại, Thương vợ là một bài thơ hay, có giá trị cảm xúc mạnh mẽ của Tú Xương. Cái hay ở cách dùng từ, dùng hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bức thư đầy cảm xúc thực, lời thơ giản dị mà sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, kính trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện những đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng.

4. Phân tích 2 câu văn về chủ đề Thương vợ

Kinh doanh quanh năm ở mom river,​

Nuôi năm đứa con với một người chồng.”

Tác phẩm mở đầu bằng hai câu thơ mở ra một bức tranh toàn cảnh về những vất vả, lo toan của bà Tú được tô vẽ bằng một bảng màu đặc biệt, đó là màu gọi là cảm xúc, màu của tình yêu. , của sự biết ơn, của tình yêu thương vô bờ bến, ẩn sâu trong đó là nhuốm màu tủi thân, tự giễu. Tú Xương đã dùng những từ ngữ gợi nhắc về thời gian và địa điểm để vẽ nên hoàn cảnh khó khăn của bà Tú. Nhà thơ đã dùng từ “quanh năm” để nói về quãng thời gian Ba ​​Tú phải làm việc, đó là một khoảng thời gian dài vô tận, một vòng quay lặp đi lặp lại của thời gian, của thiên nhiên, nhằm diễn tả sự vất vả. Công việc triền miên của bà Tư ngày này qua ngày khác, bất kể mưa nắng. Và từ gợi thời gian còn cho ta thấy những sương gió, mỏi mệt mà bà Tú phải chịu, nó cũng cho ta thấy một vòng khép kín không có kẽ hở để nghỉ ngơi mà cuối cùng bà Tú vẫn phải quanh quẩn với gánh buôn của mình. việc kinh doanh. Nhưng nghề bán buôn không hề dễ dàng, là nghề đòi hỏi sự tháo vát, khéo léo trong ăn nói nhưng lại rất bấp bênh, rất dễ thua lỗ, thất thu. Tất cả những nét vẽ ấy đủ để lại trong lòng người đọc một hình ảnh già nua, đầu tắt mặt tối của bà Nhưng không dừng lại ở đó, không gian buôn bán của bà được gợi lên qua hình ảnh “mẹ sông”. Địa thế “mom sông” đầy hiểm nguy, trắc trở khó lường là nơi buôn bán thường ngày của chị em phụ nữ. “Mẹ sông” ấy còn gợi cho ta sự phân luồng, hình ảnh ấy vừa có thể gợi sự bấp bênh của nghề bán buôn, sự hiểm trở của địa thế, lại vừa khiến ta liên tưởng đến sự phân luồng của thế giới. Tú, như một bà lão, là cánh hoa bị nước đẩy về nơi vô định, là chiếc lá làm ngơ trước làn gió nhẹ. Quãng thời gian dài phối hợp cộng với địa bàn khó khăn càng tô đậm thêm hình ảnh bà Tú tần tảo, hết lòng vì cả gia đình. Bằng giọng văn hóm hỉnh và tài nghệ trong nghệ thuật trào phúng, Tú Xương đã tạo nên câu thơ như một lời lên án gay gắt xã hội phong kiến ​​đã biến những người đàn ông trụ cột trong gia đình thành kẻ vô lại. ve, ỷ lại và sống cả đời “ăn lương của vợ”.

Đôi vai bà Tú vốn đã nặng trĩu nay lại nhân lên gấp bội những vất vả khi phải “cực chẳng đã” trở thành trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” biểu thị cả chất và lượng, công việc buôn bán của người phụ nữ vừa đủ nuôi sống gia đình, không giàu cũng không thiếu. Không chỉ vậy, cách đặt hai từ “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng mà hóa ra lại độc đáo, mới lạ cho thấy trên vai bà Tú không phải gánh cơm của bảy người mà phải “gánh”. " tất cả mười một người trên lưng anh ta. Tú Xương tự giễu mình khi so sánh mình với năm người con, làm gánh nặng cho một người chồng với cả năm người con. Anh tự nhận mình là “đứa con cá biệt”, nhằm ngầm nâng địa vị của vợ lên hàng thần thánh. Hơn nữa, cấu trúc năm đối một với từ “với” hàm chứa nỗi tủi hổ của người chồng phải lệ thuộc vào vợ. Hai câu mở đầu đã thể hiện hết những đức tính cao quý của bà Tú: chịu thương, chịu khó làm lụng để nuôi sống gia đình. Từ đó, Tú Xương cũng khéo léo bày tỏ lòng biết ơn, đồng thời cũng là sự tủi hổ khi phải đặt mình vào vị trí như những người con của mình. Thương thay, đáng thương biết bao cho một kiếp người là đàn ông nhưng không thể gánh vác gia đình, phải sống bên vợ, nương tựa vào một người phụ nữ mảnh khảnh, nhỏ bé.

Hai câu kết vừa giới thiệu bức tranh “thân cò”, vừa thể hiện lòng dũng cảm, tháo vát, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay. Tất cả được vẽ nên bằng tình yêu và lòng biết ơn của Tú Xương dành cho người phụ nữ đã kết tóc se duyên, theo ông đi cả thế gian.

5. Phân tích bài thơ Thương Vợ – Văn mẫu 1

“Văn chương nằm ngoài quy luật băng hoại. Một mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ Tú Xương là một trường hợp tương tự. Thân mình hơn 100 năm đã hòa tan làm một với đất mẹ, nhưng sự nghiệp văn chương của người tài hoa ấy vẫn không ngừng lay động lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian.

Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ”, một bài thơ trữ tình với nụ cười hóm hỉnh, vừa tự giễu vừa bày tỏ tình yêu, sự kính trọng đối với người vợ đã hy sinh hết mực. một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.

Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ là bà Phạm Thị Mận. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết ông là một trí thức phong kiến ​​kiểu nhà Nho “Lưng dài đắt giá” phải nương nhờ vào vợ. Mọi chi tiêu trong gia đình đều một tay bà Tú tính toán. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông “tiền cô nương kiếm” hay “Hỏi quan lấy lương vợ”.

Trong bài thơ Thương vợ cũng vẫn là những vấn đề đó được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn và tám câu Đường luật. Hai câu kết mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả, cơ cực và vô cùng neo người:

“Quanh năm làm ăn ở mom sông
Nuôi năm đứa con với một chồng”

Nghề kinh doanh theo quan niệm của người xưa là con đường làm giàu đầu tiên. “Phi buôn bán thì không giàu” nhưng việc làm của bà Tú thì hoàn toàn ngược lại. Nơi làm ăn ở đây không phải là vùng đất tốt, bằng phẳng ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là nơi bấp bênh, không ở bến đò qua sông tấp nập thường ngày”.

“Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm kinh doanh của bà Tư nơi “đầu sóng, ngọn gió”, đối mặt với muôn vàn hiểm nguy khi nước xuống, nước lên, nước lên. Thời gian ở đây “quanh năm” từ ngày này qua tháng khác. Thời gian dài không bao giờ nghỉ ngơi. Một công việc nặng nhọc, vất vả mà người vợ phải gánh vác để chăm sóc gia đình.

Xưa nay với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết nên” những việc lớn như kinh tế gia đình đều phải do đàn ông tính toán, mà người gánh trọng trách đó ở đây chính là bà. – một người phụ nữ tràn đầy tình yêu thương và nghị lực có thể “một chồng nuôi năm con”. Đủ ở đây để đủ cơm đủ áo. Là một người lao động có bảy miệng ăn, tôi thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên vai người phụ nữ gia đình.

Trong câu thơ này, nghệ thuật đối xử với năm đứa trẻ được sử dụng ở số nhiều, nhưng nó được sử dụng để xếp thành một chồng là số ít. Đủ cái ăn cái mặc cho năm đứa con bằng số tiền nuôi một người chồng. Như chúng ta đã biết, cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và bình dị 37 năm, nhường như gói gọn trong ba việc chính: đi học, thi cử và làm thơ. Năm 15 tuổi bắt đầu đi thi, 22 năm còn lại vẫn đi thi, mỗi lần vào trường trải tám màn lều bạt, đó là bao nhiêu tiền của, tiền của đều do một tay bà lo. .tử. Khép hai câu kết giới thiệu không gian, thời gian và công việc của bà Tú sang hai câu thực mở ra hình ảnh “thân cò”:

“Lặn bão chỗ vắng

nước trên mặt sông vào mùa đông"

Câu thơ gợi cho ta hình ảnh quen thuộc trong văn học dân gian: “Con cò lội qua bờ sông/ Gánh gạo cho chồng tiếng khóc rưng rức”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam sớm hôm chăm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò, số phận cụ thể gợi sự mong manh, bé nhỏ trước thế sự. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” càng làm cho hình ảnh ấy trở nên cụ thể và sâu sắc hơn.

Hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của người xưa “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”, nhưng vì miếng cơm gia đình mà bà phải liều lĩnh xông pha vào chốn nguy hiểm để rồi phải chịu”. rơm” nơi “đò chật”. Hai tính từ đứng đầu và cuối câu vừa gợi hình vừa gợi hình.

khiêm nhường như nhà thơ rất cảm thông và xót thương cho thân phận của vợ mà rơi nước mắt trước hình ảnh đó. Hai câu thơ này có thể coi là hay nhất trong bài thơ cũng như lay động lòng người nhất khi tái hiện hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.

Nếu như ở bốn câu đầu tác giả giữ cương vị, vai trò người chồng đứng ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và đồng cảm với bà Tú thì ở bốn câu sau Tú Xương lại nhập thân. trong tâm tư, tình cảm của người vợ để lên tiếng “chủ quan” và chân thật hơn. Hai câu luận là những lời than thở Tú Xương nói thay cho nỗi lòng của vợ:

“Một duyên, hai nợ, phận”

Năm nắng mười mưa, dám quản công."

Từ “mệnh” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là nguyên nhân cho sự phát sinh của một sự vật. Theo quan niệm của đạo Phật, đó là số phận mà Thượng đế định sẵn cho con người gặp nhau, có khả năng yêu nhau và trở thành vợ chồng, giúp cho những đôi lứa yêu nhau gắn kết nơi trần gian. “Trăm năm làm bạn, ngàn năm chung chăn gối” câu chuyện dân gian tạo nên một cặp duyên nợ.

Trong mắt Tú Xương chỉ có một món nợ rồi đến hai món nợ càng ít càng nhiều. Nghĩ cho kỹ bà Tú lấy ông Tú cũng là một cái duyên, nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ nhiều hơn. Bởi thế mà sự vất vả của một người đã được nâng lên thành số phận của cả một đời người. Bởi đó là cái duyên, “đâu là phận”. Âu có nghĩa là chịu đựng, là chấp nhận.

Bởi đó là cam chịu và chấp nhận “năm nắng mười mưa dám quản công”. Số từ theo dãy: một, hai, năm, mười được sắp xếp theo thứ tự tăng dần cho thấy sự khó khăn chồng chất lên vai bà Tú. “Âu phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ thể hiện cách cư xử của người vợ luôn nhẫn nhịn, chịu đựng tất cả vì chồng con.

Khép lại bài thơ, hai câu cuối nâng lên thành tiếng chửi. Tiếp xúc với tiếng nói của bà Tú, Tú Xương nguyền rủa sự bội bạc của bố mẹ chồng và sự bạc bẽo của chính mình đối với vợ.

“Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng vô tâm hay không"

Trước đây, mẹ chồng thường là “nỗi kinh hoàng” của các nàng dâu, bởi quan niệm phong kiến ​​về hôn nhân cho phép người “mua” vợ cho con kẻ khác mua người làm thuê, đối xử tệ bạc. con dâu. Ta đã từng thấy tiếng chửi ấy nhẹ nhõm, sâu lắng trong những câu ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ nó hiền/ Cơm không nát, đồng nát làm đôi” hay “Cha trách mẹ cha/ Con không biết nó là gì. vàng hay đồng thau”.

Tú Xương không chỉ là nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không chỉ là những lời chửi rủa bọn quan lại phong kiến ​​ngu dốt mà còn là những bài thơ tự bộc bạch. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ mượn lời vợ để tự nguyền rủa mình là người chồng “hờ”, không nuôi được vợ mà ngược lại càng gánh thêm gánh nặng cuộc đời lên vai. của nhà hiền triết.

Nhà thơ tự cho mình là kẻ vô tích sự cũng là một cách ca ngợi, tôn vinh vợ một cách chưa từng thấy trong thơ ca trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con phụng phịu/ Cau có đời anh”. Nét đặc sắc của hai câu kết bài là tiếng chửi nhưng vẫn mang ý giễu cợt, giễu cợt, tự trách nhưng vẫn là để chia sẻ cảm thông với vợ.

Tú Xương và Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỷ 19, là hai nhà thơ tiêu biểu và độc đáo cho lối thơ tự trào. Thơ ông với những cải cách mới về giọng văn theo xu hướng khẩu ngữ, sử dụng giọng nói đời thường nhưng vẫn đảm bảo giọng điệu trữ tình và sức gợi, gợi cảm.

“Thương vợ” là một bài thơ hay với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng điệu dân gian và giọng điệu phản bác một cách tinh tế, phong phú khắc họa chân dung bà Tú và bộc lộ tâm trạng, tình cảm của bà. Tu xương cho vợ. Cùng với đó, lối ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 khiến lời thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.

Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương thể hiện tình cảm sâu nặng, tình cảm chân thành của nhà thơ dành cho cha mình. Trước Tú Xương, hiếm có nhà thơ nào có những bài thơ viết về vợ hay và sâu sắc như ông. Đoạn thơ không chỉ thể hiện một tâm hồn uyển chuyển, nhân hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn thể hiện tài năng, bút pháp của một nhà thơ biết vận dụng, sáng tạo giọng điệu dân gian.

Phân tích thương vợ
Phân tích tình yêu của vợ (Hình ảnh minh họa)

6. Phân tích bài thơ Thương Vợ – Văn mẫu 2

Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy bén trước sự đổi thay của nhân tình thế thái. Xã hội của Tú Xương đời Tú Xương là một xã hội bị xáo trộn về mọi thứ, ngay cả giá trị thiêng liêng nhất của tình yêu thương cũng bị đánh mất, tình người với người chỉ còn là thứ tình cảm nông cạn mua bán, đổi chác. dễ.

Giữa cái xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ đã giữ cho mình một tình cảm cao quý nhất, đó là tình thương vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thật của nhà thơ dành cho vợ với sự cảm thông, chia sẻ, biết ơn cũng như một nỗi tủi thân, tự trách mình về trách nhiệm của người chồng. Tú Xương ngay từ đầu đã tỏ ra là một người chồng quan tâm đến vợ, thấu hiểu công việc của vợ:

Làm ăn quanh năm ở mom river

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Công việc kinh doanh của Bà Tư là công việc chính để nuôi chồng con. Quanh năm không ngày một ngày hai, chị kinh doanh quanh năm, quanh tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng. Dòng sông mẹ là không gian kinh doanh của cô.

Đó chính là khu đất nhô ra bên bờ sông Vị Hoàng chảy qua thành phố Nam Định, một vùng đất rất bấp bênh, bấp bênh, không kiên cố, sẵn sàng đổ ập xuống sông bất cứ lúc nào. Rồi tôi mới thấy sự nguy hiểm đến tính mạng của cô ấy và những khó khăn, vất vả khi làm ăn. Ở đây, không gian sông mẹ, thời gian quanh năm đậm màu hơn là hình ảnh bà Tú tảo tần, ngược xuôi. Đó là người phụ nữ nhiều đời và với bà Tú lại càng rõ hơn.

Đoạn thơ sau nâng vị trí của chị lên thành trụ cột gia đình, còn người chồng bị hạ thấp thành kẻ ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi năm đứa con với một người chồng. Cách đếm năm con có chồng rất đặc biệt. Nhà thơ đặt chồng như những đứa con mà cũng phải nuôi nấng như một người đàn ông bé nhỏ như một đứa trẻ, phải đếm bằng một miệng ăn, hai miệng ăn.

Từ đủ diễn tả mức độ giáo dục đó. Bà nuôi ông không chỉ bằng cơm ăn, áo đủ mặc mà còn có chút rượu để ông ngâm nga, quần áo mới để ông vui với bạn bè. Ba Tu quán xuyến mọi việc, vừa nuôi nấng vừa chu cấp cho anh. Gánh nặng chồng con đè nặng lên vai bà Tú.

Đàn bà như chị chỉ lo sửa túi cho chồng, việc kinh doanh của chồng lo cho chị nên chị phải bứt ra khỏi cuộc sống an nhàn để bước vào dòng đời với nhân tình chăm sóc sáu miệng ăn. ăn ở, làm hộ chồng đủ thấy chị đã hy sinh tất cả cho chồng con. Hiểu được hoàn cảnh của vợ, quý trọng những công lao của vợ chứng tỏ nhà thơ rất yêu vợ, yêu vợ tha thiết. Hai câu thực tiếp nối mạch cảm xúc của sự cảm thông, chia sẻ:

Lặn tìm cò nơi vắng

mặt nước trong thời gian mùa đông

Công việc của cô ấy ở đây hiện lên rất rõ ràng. Bà Tú bơi ngược xuôi khi một mình băng qua con đường dài vắng, cãi qua cãi lại ngay trên sông thuyền đông đúc. Đó là công việc khó khăn và vất vả của cô ấy. Lặn lội, eo hẹp thể hiện bản chất khó bán. Thương trường là chiến trường, dễ nhường miếng ăn cho nhau, hóa ra bà Tư cũng lời qua tiếng lại, gây nên cảnh thác loạn trên sông. Đoạn thơ gợi cho ta liên tưởng đến thân phận người phụ nữ xưa qua câu thơ:

Con cò bơi bên sông

Mang cơm nuôi chồng khóc.

Con cò già và thân cò nhường nhịn như có một sự tương đồng. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy càng làm cho hoàn cảnh của bà Tú thêm đáng thương. Bà Tú chẳng khác gì hình dáng con cò, gầy gò, lầm lũi bước đi chậm chạp, một mình, lầm lì, lẻ loi. Đối lập nỗi cô đơn lẻ loi của nàng với nỗi cô quạnh khi phương xa vắng vẻ và dáng vẻ tất bật tấp nập của đoàn thuyền đông đúc, nhà thơ cùng cực bỏ lại những nhọc nhằn, vất vả để duy trì cuộc sống của chồng con. .

Anh Tú hiểu điều đó. Và anh không thờ ơ. Đằng sau mỗi con chữ là chất chứa cảm xúc. Anh ngưỡng mộ chị về sự bền bỉ quanh năm trong công việc, khen chị nhiệt tình với chồng con nhưng trong lòng anh lại trào dâng một nỗi tủi hổ, tủi hổ: Anh tự trách mình không làm tròn trách nhiệm của người chồng. .

Bá Tử biết được tâm sự của anh như vậy chắc chắn sẽ vơi đi phần nào gánh nặng và trong lòng chắc chắn sẽ được an ủi, động viên. vất vả, gieo neo nhưng bà Tư không kêu than một lời. Ngày qua ngày, công việc cứ lặng lẽ trôi đi như chính thế giới ấy:

Một duyên hai nợ

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Những câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của mình. Nhưng xưa nay cô chưa bao giờ than thân trách phận, cô chấp nhận tất cả, giấu kín trong lòng mình bao nỗi buồn đau. Anh Tú vì thương vợ đã thay mặt cô lên tiếng. câu nói dân gian vợ chồng là duyên số.

Tú Xương may mắn rất đúng khi nói về bà Tú, cùng một đời vừa là duyên vừa là nợ, có duyên là nợ hai người, sướng ít do ít, khổ nhiều do nợ nhiều. , đó là số phận. rồi đành phải chấp nhận. Dám quản của công, không dám trả hā, không dám tính của công dẫu có gian lao, sương gió, mười năm nắng mưa. Đã chạy vào số phận làm sao thoát ra được, câu thơ kết thúc bằng một thanh số phận càng làm cho cảm xúc thêm dồn nén.

Bà Tú hẳn đã nhiều lần bức xúc, thấy cuộc đời sao bất công, muốn phản kháng nhưng bà bảo hãy tự lo cho mình và chấp nhận sự im lặng của bà cho đến nhẫn nhịn, cam chịu. Nước mắt cô chảy ngược vào trong, cô giữ chặt trái tim mình, không muốn ai biết được nỗi lòng và nỗi đau của mình. các số một, hai, năm, mười với thể thơ 2/2/3 ngắn gọn, thể hiện tâm trạng bức xúc, sâu lắng và kéo dài của thế giới gắn với tác phẩm không bao giờ cạn.

Ở đây, Tú Xương hoàn toàn nhập tâm vào vợ để lắng nghe từng nỗi niềm của nàng. Ẩn sau đó là nhiều nỗi niềm của anh, một người chồng đau khổ mặc cho vợ ngược xuôi mà không giúp được gì? Đoạn thơ gửi gắm niềm thương vợ và sự tự trách bản thân sâu sắc. Ở hai câu cuối, cảm xúc có vẻ mạnh mẽ, không phải là những câu nói vu vơ như trước mà là những câu chửi thâm độc:

Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Tiếng chửi không phải của bà Tú vì bà đã chấp nhận và chịu đựng nó đến hết đời, ông Tú mong bà chửi để bớt gánh nặng trong lòng, ít nhất là vì bà coi ông khác con cái. Sự kìm nén và bức xúc buộc anh phải mượn lời cô để chửi mình. Một ông chồng chỉ ngồi đó mà ăn, vô tư, đôi khi phán xét, ra mặt, soi mói vợ hết mực thì còn xứng đáng là chồng? Anh ta buộc tội mình phản quốc, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm.

Sự thờ ơ của anh còn khiến cô đau khổ gấp ngàn lần. Dù gánh nặng vật chất chồng chất đến mấy bà Tú vững tay chèo còn chịu được, nhưng sự thờ ơ, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẽ khiến bà gục ngã ngay. Một người chồng như thế cô không cần, có hay không. Lấy chính mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thói đời, tức là nó rất phổ biến, thường xảy ra.

Đó chính là đặc điểm của xã hội đương đại mà nhà thơ đã sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ là làm nổi bật bản chất xấu xa của xã hội coi thường tình cảm, trọng thể diện, danh lợi, tiền tài. Đoạn thơ khép lại bằng từ khắc khoải không tưởng hướng người đọc vào chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi xót xa, tủi thân của người chồng và nỗi niềm của người vợ.

Đoạn thơ là tiếng nói chân thành ca ngợi, cảm phục, chia sẻ, đồng cảm với nỗi vất vả neo người của bà Tú, đồng thời cũng là lời tự trách, tự trách của ông Tú. Phải yêu vợ, yêu vợ đến mức một nhà thơ mới có thể viết được bài thơ chân thật và xúc động tương tự.

Sự hòa quyện giữa trữ tình và trào phúng đưa người đọc đến một cung bậc tình cảm rất sâu sắc, giản dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ sự căm ghét nhân tình thế thái thay đổi. Tú Xương qua bài thơ nhắn gửi đến các ông chồng: hãy nói lời yêu thương và chia sẻ nhiều với vợ.

7. Phân Tích Tình Vợ – Mẫu 3

Nói đến thơ trào phúng, không ai có thể quên ông, một giọng thơ sắc sảo, giễu cợt, mạnh mẽ và phê phán hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như những mảnh thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực tương tự như Nguyễn Tuân, rằng hiện thực chỉ là “chân trái” của ông, còn “chân phải” của ông là trữ tình. Trân trọng và nhớ thơ Tú Xương nhiều hơn, có lẽ bởi người ta nghe được nhịp đập của một trái tim chân thực, giàu cảm xúc, trân trọng nhân cách, mang trong mình một nỗi đau khôn nguôi. Buồn bã vì không có tiền giúp một người ăn xin, một đồng hương cùng cảnh ngộ, anh ta thề độc: “Thằng cha nào tiếc của không cho”. Mang nỗi nhục làm nô lệ của một người trí thức, ông cay đắng nói: "Có kẻ nào ở phương Bắc! Ngửa cổ nhìn nước"…

Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình, ông luôn bị dằn vặt bởi mặc cảm bất cần, Tú Xương “yêu vợ”, có chồng phải gánh vác trụ cột, ông tự trách mình vì cái vai “bất hiếu” của gia đình. gia đình. Tôi.

Đành rằng, các đấng mày râu ngày xưa đa phần đều yêu vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nào đó mà họ thường ngại bày tỏ tình cảm của chồng, đặc biệt là bày tỏ trực tiếp tình cảm với vợ qua tờ giấy trắng. mực đen, ít hơn trong văn học. Vào thế kỷ 19, có hai nhà thơ, thanh niên Nguyễn Khuyến và Tú Xương khi còn sống đã không ngần ngại nói lên tình nghĩa của một người chồng đối với vợ mình. Nhưng về đề tài này, bài Thương vợ của Tú Xương là bài thơ nổi tiếng nhất:

Làm ăn quanh năm ở sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Bơi thân cò nơi vắng,

trên mặt nước vào mùa đông.

Một duyên hai nợ,

Bao năm nắng mưa dám quản công

Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: người vợ giàu đức hy sinh và người chồng rất thấu hiểu, sẻ chia, hết mực yêu thương, kính trọng vợ.

Hai câu thơ đầu giới thiệu nghề nghiệp cũng như trách nhiệm nặng nề của bà Tú:

Làm ăn quanh năm ở sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Kinh doanh cũng là một nghề như bao nghề khác, người ta làm để kiếm sống. Người xưa cũng coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu. Nhưng doanh nghiệp của bà Tư không như vậy. Không có hàng quán, cửa hiệu, nhà hàng mà nơi bà “làm ăn” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi hình ảnh một mảnh đất nhô ra bên bờ sông, có thể nước xuống, nước lên, có mất, có đò qua, chợ không, có không. thị trường có thể đáp ứng trong một thời gian. buổi sáng hoặc buổi chiều. Lượm hai ba gánh hàng, một chỗ buôn thúng bán bưng, vốn ít, lấy công làm lời, chắc chắn thu nhập chẳng đáng bao nhiêu. Vậy là với công việc nặng nhọc ấy, bà Tư không chỉ nhẫn nhịn một hai buổi mà phải đeo đuổi “quanh năm”. Từ “quanh năm” gợi ra một thời gian dài, đó là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng mười hai, cũng là từ năm này qua năm khác. Công việc nặng nhọc ấy nhường nhịn như đeo đuổi bà Tú cả đời, bởi nó không khiến bà khá hơn để có một công việc khác nhàn hạ hơn hay phát triển “sự nghiệp” lên tầm cao hơn.

Công việc vất vả, thu nhập ít ỏi nhưng bà Tú phải lo cho cả gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, sáu mā không phải là “năm con một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng kham nổi, lo cho họ chỉ cần bát cơm manh áo. Còn ông chồng, là “một”, mà ngân sách bằng năm đứa còn lại. Đôi khi còn hơn thế nữa! Mỗi lần anh đi thi, tiền bạc đều đổ lên vai vợ, chưa kể khi cơm rượu chè, khi vui thì ra đường hát hò, cũng đưa tiền cho vợ.. Nhiều khoản chi như điều đó nhưng khi nào cô ấy? cũng lo “đủ điều”. Thật là biết tháo vát biết bao, cưng chiều chồng thế nào!

Có được giọng thơm ấy, đâu phải dễ, cô Tư phải cố gắng rất nhiều mới thay đổi được:

Lặn tìm cò nơi vắng

trên mặt nước vào mùa đông.

Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong câu ca dao quen thuộc:

… Con cò lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc rưng rức;

… Con cò đi ăn đêm

Đậu bên phải cây lộn cổ xuống ao.

Hình ảnh cánh chim hiền lành, cần mẫn lặng lẽ hái lượm kiếm ăn trên ruộng lúa, bờ sông đã trở thành biểu tượng của những người phụ nữ cả đời làm lụng vì chồng con, ít khi nghĩ đến bản thân. riêng tôi.

Trong thơ Tú Xương không phải thân cò mà là thân cò. Nó không còn là một con vật cụ thể, nó là thân phận, là số phận, là cái gì đó rất mong manh, nhỏ bé trước bao vũ điệu của thế gian. Tôi như hạt mưa…). Quá yếu, quá tiêu cực, luôn phải lăn lộn, vùng vẫy. Khi quãng vắng thì bơi lội; Thuyền đông thì khó mà chịu được. Hai tính từ đối lập ở đầu hai câu thơ vừa có nghĩa bóng, vừa có tính biểu cảm. Có một người đàn bà gầy như cò hương, gánh nặng trên vai, một mình đi trên con đường lầy lội. Hàng về rồi, tránh mưa gió, mất tiền nên phải ra hàng. Và ở đó, cũng chính thân cò phải xù lông tung cánh, tranh nhau tranh mua bán tranh, tranh xuống cho kịp thuyền, tranh lên cho kịp chợ. Ở nơi đông người, bạn đổ mồ hôi, khi vắng người, bạn rơi nước mắt.

Nhưng đó là bà Tú trong mắt ông Tú, và với bà không một lời kêu ca phàn nàn, đó là một thái độ chịu đựng cố hữu của phụ nữ phương Đông.

Một duyên hai nợ,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Số từ được sử dụng rất điêu luyện, vừa tăng vừa nghịch: một, hai, năm, mười gợi vấn đề ngày càng nặng, và sức mạnh phi thường của người vợ gánh vác. tất cả. Thật kiên cường nhưng thật đáng thương! Hầu hết phụ nữ đều dựa vào chồng để hưởng phúc nhưng với bà Tú, đó chỉ là cái nợ cả đời. Nhập vai vào nhân vật, Trần Tế Xương nói thay những thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ sự hy sinh của người bạn trăm năm. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những vấn đề đặt ra là lời khẳng định: Ấu ỷ phận/ dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không thể tranh cãi, một hành vi hiển nhiên. Phụ nữ Việt Nam là thế, bà Tú Xương là thế, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác mà không so đo, phàn nàn.

Bà chỉ biết im lặng chịu đựng nên ông Tú trách bà:

Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Thơ như một lời nguyền. Mā là một lời nguyền thực sự: "Cha mẹ có thói đời...". Đâu phải vợ chịu nhiều khổ cực, thiệt thòi mà chồng chửi mình. Từ "thờ ơ" nghe thật chua xót. Bà Tú lấy phải người chồng bội bạc, không phụ giúp gia đình, vợ không thể trụ cột, bỏ vợ nuôi hổ báo. Đúng là có chồng mà như không có, còn khổ hơn là không có chồng. Bức thư có chút vị đắng trong bài thơ Lấy lý do của Hồ Xuân Hương:

Cố ăn xôi, xôi nguội

Giữ giấy phép cho thuê không trả tiền.

Cơ thể này biết cách nhượng bộ, phải không?

Đó là nó trước đây, chỉ cần ở lại đó.

Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân cho một cuộc đời long đong, vất vả, là sự hội tụ của nhiều đức tính tốt đẹp: cần cù, dũng cảm, nhẫn nhịn, vị tha, lo cho đời sống chồng con. đứa trẻ.

Có một người không trực tiếp xuất hiện, đó là ông Tư, mà đôi mắt và trái tim luôn hiện diện. Đôi mắt anh nhìn rõ những cay đắng, nhọc nhằn hàng ngày, và trái tim anh thấu hiểu nỗi cô đơn, đau khổ thầm lặng của cô. Bài thơ Thương vợ là một bản tự phê, tự phê rất thành thật và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi câu thơ như một tiếng thở dài đau đớn của một người rất có trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tình yêu thương, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn chân thành của người chồng đối với người vợ đã vì mình mà chịu nhiều vất vả.

8. Phân Tích Tình Vợ – Mẫu 4

Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy của nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc bén, dùng tiếng cười làm vũ khí để giễu cợt, đả kích sâu sắc bộ mặt xấu xa, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chất chứa nhiều nỗi niềm của một nhà Nho nghèo về tình người. và tình yêu sâu sắc của cuộc sống.

“Thương vợ” là bài thơ xúc động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Đó là một bài thơ tâm sự, đồng thời là một bài thơ thế sự. Đoạn thơ chan chứa tình yêu thương nồng ấm của nhà thơ dành cho người vợ hiền.

Sáu câu thơ đầu thể hiện hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. nếu vợ Nguyễn Khuyến là một người phụ nữ “giỏi giang, lưng đeo dùi, xăn váy xúng xính, chân đạp tất, việc gì tôi cũng giúp” (đôi câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là một đàn bà:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một chồng”

“Làm ăn quanh năm” là cảnh làm ăn tăm tối, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, không một ngày ngơi nghỉ. Bà Tú “làm ăn ở sông mẹ”, nơi có mũi đất nhô ra, ba mặt có sông nước bao bọc, nơi làm ăn là vùng đất bấp bênh. Hai chữ “mẹ sông” diễn tả một cuộc đời dãi dầu mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, chật vật mưu sinh, để “một chồng nuôi năm đứa con”.

Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai người mẹ và người vợ. Thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, tiền…, chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào chất chứa nỗi niềm chua xót về một gia đình nhiều vấn đề: đông con, người chồng đang phải “ăn lương của vợ”.

Có thể nói, trong hai câu thơ ở tựa, Tú Xương đã ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ đảm đang, đảm đang của mình.

Phần thực, tô đậm chân dung bà Tú, cứ sáng tối ngược xuôi “bơi lội” làm ăn như “thân cò” ở “chốn xa”. Giọng thơ tăng thêm làm nổi bật nỗi vất vả của người vợ. Câu văn như đường nét, màu sắc nối tiếp nhau, bổ sung, tăng tiến; đã “lặn mất tăm” Lại còn “thân cò”, rồi “vắng bóng”. Nỗi vất vả mưu sinh ở “mom sông” dường như không sao kể xiết! Hình ảnh “con cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bên sông…”, “Con cò đi hứng mưa…”, “Con cò, con vạc, con cạn,.. được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ xúc động về bà Tú, cũng như thân phận éo le, bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Nuốt xác cò giữa đồng hoang

trên mặt nước phía đông thuyền”

“Eo sèo” là từ tượng thanh chỉ sự quấy rối bằng những tiếng gọi đòi hỏi, dai dẳng: tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã lúc “nước chảy” khi “đò chật thuyền”. Một đời "bơi", một đời "nghèo" kinh doanh. Nghệ thuật chuyên môn hóa đã vượt xa hoàn cảnh cơ cực kiếm được nhiều tiền. Với bát cơm manh áo, chị kiếm đủ “một chồng nuôi năm con”. “lặn lội” nắng mưa, phải tranh giành “eo biển”, phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt giữa gian khó! Tiếp theo là hai bài tùy bút, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, cân xứng hài hòa, đậm đà màu sắc dân gian trong cả cảm lẫn giọng. biểu thị:

“Một duyên, hai nợ, phận và phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”.

“Phận” là một định mệnh, một định mệnh đã định trước, một “món nợ” cuộc đời mà bà Tú phải cam phận, cam chịu. “Nắng” và “mưa” tượng trưng cho mọi gian nan, vất vả. Số chữ trong câu thơ tăng dần: “một… hai… năm… mười… tô đậm sự hy sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì giàu sang, hạnh phúc. chồng con và gia đình. “Âu bạc mệnh”,…”dám quản công”…giọng thơ mang nhiều ngậm ngùi, thương cảm, thương thân, thương phận nhiều ngang trái.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu với lòng biết ơn, ngưỡng mộ, Tú Xương đã phác họa vài nét rất chân thực, xúc động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền của ông với nhiều đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, âm thầm. hy sinh vì hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện tài năng điêu luyện trong sử dụng giọng điệu và tạo hình. Các từ láy, các con số, các phép so sánh, thành ngữ và hình ảnh “thân cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.

Hai câu cuối, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi của địa danh “mom sông” lúc “đò đông ngày đông” đưa vào lời thơ rất tự nhiên, giản dị. Anh tự trách mình:

“Cha mẹ có thói quen sống không tốt,

Có chồng hờ hay không!"

Tự trách mình “ăn lương vợ”, nhưng lại “ăn bạc”. Vai trò người chồng, người cha không ích lợi, thờ ơ, thậm chí “thờ ơ” với vợ con. Lời tự trách sao mà đau đớn quá! Ta đã biết, Tú Xương có tài lớn nhưng công danh dang dở, thi cử dài dài. Sống giữa một xã hội “xấu Tây, xấu ta”, xấu cả chữ Nho, khi “ông Nghè, ông Cống cũng đã nằm xuống”, nhà thơ tự trách mình và cũng trách cuộc đời đen bạc. Ông đã không dành thời gian để làm rạng danh gia tộc “tối uống rượu sâm banh, sáng uống sữa bò”.

Hai câu kết là cả một nỗi lòng và một câu chuyện buồn, tiếng nói của một trí thức giàu có, nặng lòng với đời, thương vợ thương con và một thương gia nghèo. Tú Xương thương vợ cũng như thương mình: nỗi đau mất mát của nhà thơ khi cuộc đời đổi thay!

Bài thơ Thương vợ được viết theo thể thơ bảy chữ. Giọng thơ giản dị như tiếng nói đời thường trong “mom sông” của những người buôn bán nhỏ cách đây cả thế kỷ. Các chi tiết nghệ thuật được chọn lọc vừa mang tính cá biệt (Bà Tú với “năm con, một đời chồng”) vừa mang tính khái quát sâu sắc (người phụ nữ xưa). Hình ảnh thơ cô đọng, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia đạo càng làm tăng thêm nỗi đau của cuộc đời. “Thương vợ” là một bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương viết về người vợ của mình, một người phụ nữ xưa với nhiều đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nhắc đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một vị trí vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên anh sẽ sống mãi với Non Côi, sông Vị.

9. Phân Tích Tình Vợ – Văn mẫu 5

Thơ xưa viết về vợ đã ít, viết về vợ khi còn sống lại càng hiếm. Thi sĩ thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Cũng là một điều nghiệt ngã khi người vợ bước vào cõi trời bước vào cõi thơ.

Bà Tú Xương có thể phải chịu nhiều khổ cực của cuộc đời, nhưng bà có một hạnh phúc mà người vợ cũ của bà nhiều đời không có được: Ngay khi còn sống, bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả tình yêu thương, sự kính trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương có một phần lớn viết về vợ, bài Thương vợ là một trong những bài hay nhất.

Tình yêu thương vợ sâu nặng của Tú Xương được thể hiện qua sự thấu hiểu những nỗi vất vả và phẩm chất cao quý của vợ.

Câu thơ mở đầu nói về hoàn cảnh làm ăn của bà Tú. Hoàn cảnh khó khăn, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nói địa điểm. Quanh năm, quanh năm không kể ngày mưa nắng. Quanh năm cũng là năm này qua năm khác đến chóng mặt, đến tan rã chứ không chỉ một năm. Nơi bà Tú kinh doanh là mẹ con sông, vùng đất nhô ra như lời giới thiệu, lại như làm nền cho hình ảnh bà Tú tất bật ngược xuôi:

Kinh doanh quanh năm ở mom river.

Cảm nhận sâu sắc nỗi vất vả, cực nhọc của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Tuy nhiên hình ảnh con cò trong ca dao đã đầy đáng thương mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn đáng thương hơn. Con cò trong thơ Tú Xương hiện ra không chỉ trong cái rùng rợn của không gian (giống như con cò trong ca dao) mà còn là cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba chữ, khi vắng tác giả, tác giả có thể nói lên cả thời gian, không gian xa vắng, rợn ngợp, đầy lo âu và rùng rợn của thời gian, đã làm mất đi toàn bộ ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:

Lặn tìm cò nơi vắng

Đó là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ - đặt chữ bơi ở đầu câu, cách thay chữ - thay chữ cò bằng thân cò càng làm tăng thêm nỗi vất vả của bà Tú. Chữ thân cò gợi nỗi đau thân phận, so với người con của Tú Xương còn sâu lắng, thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi lên nỗi vất vả đơn côi thì câu thơ thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

mặt nước trong thời gian mùa đông

Câu thơ gợi lên cảnh tiểu thương chen lấn nhau dạo chơi trên sông. Cạnh tranh chưa đến mức chém giết nhau, nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Đò đông người không bớt lo, nguy hiểm hơn khi đường xa. Trong ca dao, người mẹ đã từng dặn con: Con ơi nhớ lấy câu này Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ lội. “Bên đò đông người” không chỉ đầy những lời phàn nàn, cằn nhằn, cau có, chen lấn mà còn chứa đầy những bất trắc nguy hiểm. Hai câu thực ra đối lập nhau về ngôn ngữ (có chỗ trống cho thuyền đông) nhưng lại thừa về ý nghĩa để làm cho cuộc đời gian khổ của bà Tú: vất vả, lẻ loi, thêm gian nan. Trong cuộc đời cô ấy. tình hình kinh doanh sầm uất.

Hai câu thực nói lên cảnh thực của bà Tú đồng thời cho ta thấy một tấm chân tình của Tú Xương: tấm lòng nhân hậu.

Cuộc sống vất vả, gian khổ càng làm sáng lên những phẩm chất cao đẹp, cao đẹp của bà Tú. Bā là một người tháo vát:

Nuôi năm đứa con với một người chồng

Mỗi chữ trong câu thơ của Tú Xương chứa chan bao tình cảm, đủ chữ trong nâng đủ để nói lên đồng thời lượng và chất. Bà Tu nuôi cả con lẫn chồng đến mức: “Hai bữa: cá kho với rau muống - Một chiều: khoai, ngô” (Cô giáo dạy).

Trong hai bài tùy bút, Tú Xương một lần nữa cảm phục đức hy sinh cao cả của vợ:

Bao năm nắng mưa dám quản công

Trong câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng ít, nói số nhiều, được tách ra để tạo thành ngữ chéo (năm nắng mưa) vừa chỉ sự vất vả. cần cù, đồng thời thể hiện đức tính chịu thương, chịu khó, tảo tần vì chồng, vì con.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, ta luôn bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện đằng trước, ông Tú khuất đằng sau. Khi bạn nhìn thấy một mớ hỗn độn, ấn tượng sâu sắc. Trong bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không trực tiếp xuất hiện nhưng vẫn hiện diện trong từng câu thơ. Đằng sau lối kể hài hước, trào phúng là cả một tấm lòng không chỉ yêu thương mà còn biết ơn vợ. Về câu ca: “Một chồng nuôi năm con”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là con riêng để bà Tú nuôi. Tú Xương không gộp mình với con để nói là riêng, con ghẻ rất riêng để một mình ông biết ơn vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn đức hy sinh hết sức của vợ mà còn tự trách, lên án chính mình. Anh không dựa vào số phận để chịu trách nhiệm. Ba Tú lấy anh vì có duyên nhưng là nợ hai người. Tú Xương tự nhận mình là món nợ mà bà Tú phải gánh. Nợ ân đôi, ân ít nợ nhiều. Ông nguyền rủa thói bội bạc, bởi thói đời là nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú đau khổ. Nhưng Tú Xương không trách thói đời. Sự thờ ơ của anh ta với con cái cũng là biểu hiện của sự bội bạc. Câu thơ tự tẩy mình của Tú Xương cũng là lời tự xét mình, tự lên án:

Có chồng hờ hững hay không?

Ở cái thời mà xã hội có luật bất thành văn đối với phụ nữ: “tông phụ, tòng phụ” (phu thê theo chồng) thì đối với quan hệ vợ chồng là “phụ mẫu, phụ tòng” (chồng nói, vợ theo nết). ), thế mới có nhà Nho dám sòng phẳng với mình, với thiên hạ, dám nhận mình là kẻ làm lương cho vợ, chẳng những đã thấy khuyết điểm mà còn dám nhận khuyết điểm. Một người như vậy không đẹp lắm.

Nhan đề Thương vợ chưa thể hiện hết chiều sâu tình cảm của Tú Xương dành cho vợ, cũng như chưa thể hiện hết vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ yêu vợ mà còn cảm ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách mình.

Nhà thơ dám nhận khuyết điểm của mình, càng thấy mình thiếu sót thì càng yêu và kính trọng vợ.

Yêu thương, kính trọng vợ là một tình cảm có phần mới lạ so với những tình cảm quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ ấy được thể hiện bằng những hình ảnh, giọng văn dân gian quen thuộc, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương tuy mới mẻ, độc đáo nhưng vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn còn sâu xa trong nhân gian. tiềm thức dân tộc.

10. Phân Tích Thương Vợ – Văn mẫu 6

Trần Tế Xương (bút danh Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng độc đáo nhất trong nền văn học nước nhà. Thơ trào phúng, đả kích, đả kích của Tú Xương được nhiều người yêu thích vì đậm chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương có lúc được tách thành những dòng thơ trữ tình trong sáng, sâu lắng. Hai tuyệt bút "Sông lấp" và "Thương vợ" tiêu biểu cho dòng trữ tình của Tú Xương.

Đoạn thơ sau là bài thơ Thương vợ của Tú Xương:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Bơi thân cò nơi vắng,

trên mặt nước vào mùa đông.

Một duyên hai nợ,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,

Có chồng hờ hay không!"

Trần Tế Xương ở lâu trong kỳ thi, đi thi đến lần thứ tám đỗ tú tài. Anh học giỏi nhưng ngu quá, thực ra cái thái độ ngu đó của anh là một cách phản đối chế độ thi cử lậu, quan trường “lún” lúc bấy giờ. Nếu đỗ tú tài thì cũng trở thành “quan viên tại gia”. Khi đó phải đỗ cử nhân mới được bổ làm tri huyện. Chính vì thế mà bà Tú sắp phải nuôi chồng cho đến hết đời. Ông Tú chỉ biết mang hoa đến tạ tội cho bà Tú:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một người chồng.”

Chữ “mẹm” thật hay, vừa thấy được nỗi vất vả của bà Tú quanh năm làm ăn bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với công việc buôn bán nặng nhọc của vợ. Từ “mẹ” là sự tổng hợp nghĩa của các từ mép, bờ, ghềnh, thềm, thành một từ láy sáng tạo đầy chất thơ làm giàu tiếng Việt. Bà Tu quanh năm buôn thúng ở “mom sông” nơi bà tần tảo nuôi chồng con:

“Một chồng nuôi năm con”

Câu thơ chỉ vài con số khô khan mà đắt giá lắm! “Nuôi năm con” là vì con, phải nuôi, nên tính ra phải nuôi. Nhưng chồng là một chồng, không phải là nhiều chồng sao cứ phải tính “một chồng”? Vì chồng còn phải nuôi, mẹ bà Tú với gánh nặng trên vai nuôi năm đứa con đã vất vả rồi, thêm một ông Tú trong nhà, gánh nặng lại nhân đôi. Lúc đó, khó khăn lắm mới nuôi được một ông Tú, Tú Xương nữa.

Nhưng bà Tú được an ủi vì ông Tú, tưởng chỉ biết đùa cho vui, đã để ý đến bà từng bước đi trên phố buôn bán:

“Nuốt xác cò nơi vắng,

trên mặt nước phía đông thuyền”

Có thể nói, tình yêu vợ của nhà thơ đã nảy nở trong hai câu thơ này. Hình ảnh con cò lặn lội được mô phỏng theo một biểu tượng trong thơ ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh nặng làm chồng dở khóc dở cười”

Nếu đảo từ “lặn lội” lên trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú thì từ “lặn lội” gợi âm thanh lẫn lộn (tiếng mặc cả, tiếng cãi cọ). của "ngày đông". Hai tình huống tương phản rất hay: “vắng” và “đông”. Người đàn bà gánh hàng đi trên đường vắng thật khổ. Đến chỗ “đông thuyền” mới thực sự đáng sợ!

tức là từ phía nào, nhà thơ cũng yêu vợ, tình yêu thật thấm thía và cảm động.

Bước sang hai bài luận, tác giả chuyển sang miêu tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như một lời độc thoại của người vợ:

Xem thêm: Đánh giá cụ thể về 3 mẫu giày MLB NY thể thao nổi tiếng hiện nay

“Một số phận, hai khoản nợ, số phận,

Năm nắng mười mưa, dám quản công."

Người ta thường nói “vợ chồng là duyên số”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ ra từ ghép “nợ” thành hai từ đơn: “nợ - duyên”. “Nợ” thiêng liêng vì có sự tham gia của đấng vô hình (ông xiềng bà Nguyệt), và “nợ” đã trở thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả sự vận động trong tâm trí bà Tú. “Một duyên hai nợ” là ở chỗ, bà Tú đã thuận theo lòng trời và lòng người (chính là lòng bà!). Tóm lại là bà Tư nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân tiền định này, nàng đã chấp nhận một chàng trai khờ khạo “không phạm quy”, nàng chấp nhận viên quan “ăn lương vợ” nên chẳng “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa, dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng một cách sáng tạo để tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói rằng những con số trong thơ Tú Xương rất thần thánh. Tôi đã thấm thía với hai con số năm – một trong câu luận đề (Một chồng nuôi đủ năm con). Bây giờ là sự kỳ diệu của những con số một - hai và năm - mười trong câu thơ. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa” cho thấy những vất vả cứ chồng chất, bà Tú đã nhẫn nhịn chịu đựng hết.

Trước người vợ tài giỏi, tần tảo, chịu đựng mọi cực nhọc để “một chồng nuôi năm con”, nhà thơ chỉ biết tự trách mình.

“Cha mẹ có thói quen sống không tốt,

Có chồng hờ hay không!"

Vì quá yêu vợ nên nhà thơ tự trách mình, trách nặng. “Bố mẹ có thói đời…” rồi nặng lời xúc phạm tôi. Thực ra đó là một cách ông Tú khiêm tốn để công lao của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương không phải là người “hốt bạc”. Ăn uống thì có, “vô tư” nữa thì nhà thơ đã nói thật rồi, nhưng không tình, không nghĩa. Sắt thép có quyền lực mà lại mềm mỏng với vợ như thế mới là người đáng nể.

Bằng tình cảm chân thực và nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện hình ảnh người phụ nữ tài hoa, cần cù tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú mang những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công lao trong gia đình, ông Tú dành hết cho bà Tú, ông chỉ nhận được một chữ “không”. Nhưng ngẫm ra thì ông Tú cũng xứng đáng với bà Tú vì trên đất nước cần cù, khó khăn này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là có thể bước vào cõi thơ, cái cõi bất tử!

11. Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Thơ Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Một số hoàn toàn là châm biếm, một số hoàn toàn là trữ tình. Tuy nhiên, hai mảng không hoàn toàn tách biệt. Thường trào phúng sâu sắc nhưng vẫn đậm chất trữ tình. Mặt khác, trữ tình úp thìa còn pha chút hài hước trong thói quen trào phúng. Thương vợ là một bài thơ tương tự.

Thương vợ là đoạn thơ tái hiện hình ảnh bà Tú cần lao, dũng cảm, hi sinh thầm lặng vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình yêu, sự kính trọng và biết ơn của Tú Xương đối với vợ.

Làm ăn quanh năm ở sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Chỉ bằng vài từ ngữ mộc mạc, giản dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bà Tú một mình gồng gánh gánh nặng gia đình, lội nơi đầu sông, bến chợ.

Mom sông là phần đất nhô ra của sông, cũng là một địa danh ở phía bắc thành phố Nam Định. Xưa kia, đây là nơi trên bến dưới thuyền, dân tứ xứ đổ về làm ăn. Quanh năm, bà Tú đi làm thuê ở đó để kiếm tiền trang trải cuộc sống cho gia đình gồm vợ chồng bà và 5 đứa con thơ.

Kinh doanh quanh năm có nghĩa là không có ngày nghỉ. Hơn nữa, từ mẹ sông làm nổi bật vị trí bấp bênh và không ổn định của doanh nghiệp. Mẹ sông ba mặt là nước, có thể đổ ra sông lúc nào không biết. Trên mảnh đất bấp bênh ấy, hình ảnh bà Tú như thu mình lại, nhỏ bé và cô đơn. Một mình nàng phải lao ra đầu sông, đầu nguồn, tội nghiệp làm sao! Trên đây là thời gian, không gian và tính chất kinh doanh của chị Tú.

Tại sao bà Tú lại chấp nhận vất vả như vậy? Tất nhiên là phải nuôi chồng, nuôi con. Xưa kia, xã hội phong kiến ​​trao cho người phụ nữ trách nhiệm thờ chồng nuôi con. Với bà Tú nhất định phải có đạo thờ chồng. Thờ chồng bao hàm cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó là sự bất công của xã hội, nhưng xét về đức hạnh, sự tháo vát của những người vợ như bà Tú thì quả là đáng kinh ngạc.

Điều khác thường trong bài thơ là cách đếm người. Nếu tính cả sáu miệng ăn và một mình bà phải lo liệu thì nhiều lắm. Hầu hết phụ nữ trên thế giới đều ở trong tình trạng tương tự. Ở đây, tác giả đếm rõ ràng: năm đứa con với một người chồng. Nhất là tách chồng ra tính là một. Xuân Diệu khi đọc câu thơ này đã có một nhận xét rất xác đáng: “Cho nên chồng cũng phải lo, chẳng khác gì mấy đứa nhỏ, nên đã ngang hàng với chúng nó: một miệng ăn, hai miệng ăn. ..".

Mã Bà Tử nuôi chồng không đơn giản như nuôi con. Cơm ngon là vậy, thỉnh thoảng phải có chút rượu để ông ngâm nga câu phú. Áo thì đúng rồi, đi đây đi đó vẫn phải có bộ đẹp, chứ có ai cho đi quanh năm đâu. Lại phải cho anh rủng rỉnh tiền trong túi để đi gặp bạn bè, bè bạn. Thế là chị nuôi đủ, tức là đủ cả về số lượng và chất lượng. Tương tự, bà Tú không chỉ nuôi sống ông Tú mà còn hầu hạ, cúng bái.

Nhưng kể ra những điều này chứng tỏ chồng rất hiểu và trân trọng công lao của vợ. cùng là yêu vợ.

Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình buôn bán càng trở nên cụ thể, rõ nét:

Bơi thân cò nơi vắng,

trên mặt nước vào mùa đông.

Tú Xương đã dùng một hình ảnh quen thuộc trong văn học dân gian về người phụ nữ lao động xưa: Con cò lội qua sông nhưng ông không so sánh thân phận bà Tú với thân cò. Thân hình mảnh khảnh, yếu ớt, phải chịu nắng chịu sương, vốn đã neo người, tội nghiệp nên sớm chiều vẫn phải bơi lội. Nghĩa đen của từ này còn gợi lên tất cả những gian nan, vất vả theo nghĩa bóng. Thân cò ấy lại bơi trên đường vắng. Nói đến đường xa, tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, lẻ loi, khi cần thì không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những nguy hiểm, bất trắc cho thân phận người con gái đường xa. Không có cách nào để nói về nó nhiều lần, với một cảm giác không hài lòng. Đò đông có thể hiểu theo hai nghĩa: đò ngang chở đầy người, hai là đò từ những nơi tập trung đông người. Hiểu như thế nào cũng đúng với dụng ý miêu tả gánh nặng, neo đậu trong cảnh đi kiếm ăn của bà Tú.

Bên cạnh sự đau khổ về thể chất còn có sự đau khổ về tinh thần. Vì chồng con mà phải đi nhiều nơi xa, nhưng liệu chồng con có biết không? Còn Bà Tú cứ âm thầm nghĩ đến cùng cho đến hết đời, hết đời, số phận của bà là như vậy.

Câu thơ trình bày đầy chất trữ tình, nghe thật buồn, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm cho nỗi vất vả của vợ và hết mực yêu thương vợ.

Ông Tú hiểu công việc của bà Tú. Khi đường vắng, đò đông, bà làm lụng không kể neo, không lo cho mình, một lòng vì chồng con. Bà Tư ma nghe những lời ấy nói như vậy chắc cũng cảm thấy gánh nặng trên vai nhẹ đi và trong lòng cũng được an ủi ít nhiều.

Nhưng không chỉ vậy, giọng điệu trữ tình được lồng một cách kín đáo trong hai câu trình bày (câu 3, 4) chứng tỏ lòng ông Tú không hề dửng dưng. Tôi thương vợ nhưng cũng tự trách mình. Anh không chỉ tự cho mình là miếng ăn để vợ nuôi mà còn thấy xấu hổ, thấy mình có gì đó vô tâm. Người chồng trụ cột gia đình đâu mà bắt vợ phải vất vả như vậy? Tự trách mình như vậy cũng là yêu vợ sâu sắc hơn.

Một duyên hai nợ,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Tú Xương lại vận dụng một thành ngữ, ca dao khác: Vợ chồng có duyên là nợ, Một duyên hai duyên ba duyên. Vợ chồng gặp nhau là do ông xích bà Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có duyên thì tốt thì hạnh phúc, có nợ thì khổ cả đời.

Có lẽ ở đây, ông Tú mượn tâm sự của bà Tú để suy ngẫm hay đúng hơn, ông hóa thân thành bà để đồng cảm sâu sắc hơn: lấy nhau như vậy cũng là duyên hay nợ, phận là thế. phải. Cho nên dù khổ cực đến đâu, nắng mưa gì cũng phải lo liệu, ai dám quản của công. Không còn là vấn đề thân phận, dù là thân cò nhưng đã là vấn đề định mệnh, là vấn đề định mệnh.

Ồ! Lấy chồng người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng! Định mệnh là vậy thì thôi, chứ biết sao đây?! Phận đàn bà như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ đói… Thì dám nói chi khó, dám quản mưa nắng!

Thêm nghĩa của một số nhóm từ dah, dám quản lý. Au phải là một người cực đoan chứ không phải đã, gấp, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản nghĩa là không dám nhắc gì đến công lao, là thái độ chấp nhận mọi gian khổ. Thêm âm nặng của từ thân phận ở cuối câu kết khiến câu thơ càng phù hợp với những cảm xúc dồn nén vào trong.

Vậy là chỉ trong bốn câu thơ mà chân dung bà Tú đã hiện ra trọn vẹn: từ sự vất vả, lăn lộn ngoài đời, đến năm bảy mối lo trong gia đình, từ con người làm ăn, tháo vát. , chịu thương chịu khó, đến một con người đức hạnh, hiếu thảo, đầy ý thức vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người mẹ Việt Nam.

Nếu bạn yêu vợ và nói rằng bạn yêu cô ấy, bạn đã quý rồi. Tại đây, ông Tú đã đóng giả bà Tú để hiểu nỗi lòng của bà và bày tỏ tình cảm của mình bằng những vần thơ chân thực, da diết. Tương tự như vậy, chẳng phải anh ấy rất yêu vợ mình sao?

Đó là thương vợ, còn trách mình? Ngồi nhàn rỗi cả ngày, làm miệng ăn cho vợ nuôi, tự nhiên nhàn hạ trong khi vợ phải ngược xuôi, nghe ác ma gì đâu. Giờ đây, người vợ thầm than và tiếc số phận hẩm hiu là do một duyên hai nợ, thử hỏi người chồng sao không nhận ra lỗi của mình? Cùng tự trách mình là ngoài tình thương vợ còn có thêm tinh thần trách nhiệm.

Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết là lời nguyền rủa thói sống phụ bạc. Chẳng là lần này ông Tư chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng chửi - chửi mình, nhưng thực ra là chửi đời: Người đói, ta cũng không no, Cha ai có, tiếc không cho. Chỉ khác là lần này, lời nguyền ném thẳng vào sinh mệnh, nhưng trước hết, nó ném vào bạn. Tự trách mình, anh phải nguyền rủa. Má phải nhét cái câu chửi đó vào mồm bà Tư mới đúng! Nhưng bà Tú, con nhà gia giáo, nào có bao giờ chua ngoa, thô tục như vậy, dám chửi chồng. Nhưng với ông Tú, ông tự trách mình đến mức phải thốt ra những lời chửi rủa như vậy, ông thực sự giận bản thân mình. Bài thơ ông viết nhằm phân biệt giữa tình yêu thương, kính trọng người vợ ngoan hiền và tự trách mình tầm thường, tầm thường.

Bà Tú làm việc vất vả như vậy, ông Tú trách mình như vậy đương nhiên phải giận mắng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, tự rủa mình bằng tiếng chửi mới đáng tội, ông Tú không dè bỉu mà dùng câu chửi dân gian: Cha mẹ thói đời.

Bà Tú không coi chồng mình là kẻ bạc tình cờ bạc nhưng ông Tú lại gọi đích danh ô sin của mình, vợ chồng là thế thì còn gì bằng, chứ ông Tú không nói thẳng là sống bằng bạc. mā khái quát nó thành thói quen sống. Lối sống đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị lại càng tệ hơn. Thế là đệ tử của nhà hiền triết là ông Tư Mã cũng bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu đó của người đời. Tương tự, từ xấu hổ, ông Tú đi đến chỗ tủi thân, tự trách.

Bản án cuối cùng là bản án vô cùng đau đớn nhưng cũng rất công bằng, ông Tú tự mắng mình là kẻ bạc tình nhưng xét cho cùng bạc chỉ ở mức độ bàng quan. Dửng dưng trước việc nhà, trước bao lo toan, vất vả, trước thái độ đảm đang của vợ. Đã là vợ chồng thì trăm thứ phải lo. Ba Tú không bắt anh phải vất vả như cô mà chỉ mong anh đừng vô tâm, lo cho gia đình một chút, trước hết là anh hiểu cô, với cô như vậy là đủ. để sưởi ấm trái tim cô và có niềm vui.

Cả bài thơ cô đọng ở ý này: ở câu đề, người chồng có mặt như miếng cơm manh áo, ở câu thực, ở bài văn, người chồng vắng bóng. Bài thơ kết thúc với sự day dứt, tiếc nuối ở câu kết: Có chồng hờ cũng như không càng làm tăng thêm nỗi xót thương của nhà thơ đối với người vợ của mình. Tú Xương nói thế đấy, nói gì là hùng hổ nói đến cùng. Tuy nhiên, có một điều anh đã tự nói oan cho mình: đó là hai chữ dửng dưng. Vì giận bản thân nên anh mới nói thế chứ thật lòng anh không hề thờ ơ với cô. Bởi nếu ông thờ ơ thì đã không có một bài hát Thương vợ da diết và xúc động tương tự.

12. Phân Tích Thương Vợ

“Cơ thể tôi giống như một ấu trùng đầy gai.
Ruột trắng, vỏ ngoài đen,
Ai đó làm ơn nếm thử đi.
Nếm thử mới biết ngọt ngào”.

(Dân gian)

Hình tượng người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong văn học cổ Việt Nam. Tuy nhiên, thơ viết về vợ với tình cảm của người chồng còn thơ viết về người vợ còn sống thì hiếm hơn. Và Trần Tế Xương là một trong những trí thức hiếm hoi của thơ ca trung đại Việt Nam đã đưa hình ảnh người vợ lâu năm của mình khi còn là bông hoa tươi đầu đường đời vào những dòng thơ. yêu thương nhưng cũng không kém phần mỉa mai làm nổi bật đức hi sinh, tấm lòng tháo vát chịu thương chịu khó của người bạn trăm năm là bà Tú, qua đó cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với vợ. Tôi :

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.
Lặn tìm cò nơi vắng
trên mặt nước vào mùa đông.
Một duyên hai nợ,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,
Có chồng hờ hững hay không."

Trần Tế Xương, tên thường gọi là Tú Xương, sống trong một thời kỳ quá độ đầy nghèo khó, nửa thực dân nửa phong kiến. Ông là người thông minh, hiếu học, hào hoa, phóng khoáng, có tài làm thơ hay nhưng lại lận đận trên con đường sử thi và nổi tiếng chủ yếu ở hai mảng thơ: trào phúng và trữ tình pha chút cười. Chất châm biếm sắc sảo bắt nguồn từ lòng nhiệt thành với nhân dân, với đất nước và với thế giới. Ông từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19.

Mặc dù kho tàng thơ văn của Tú Xương không nhiều với vỏn vẹn 100 bài thơ, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ như thất ngôn, bát cú, lục bát… nhưng có nhiều bài rất độc đáo, đạt đến trình độ tứ tuyệt. nội dung, nghệ thuật và được coi là những bài thơ bất hủ. Minh chứng rõ nhất là bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đoạn thơ đề cập đến nhiều mặt của xã hội, đồng thời cũng là tiếng nói tri ân chân thành, đáng thương của Tú Xương - nạn nhân của một xã hội đê tiện, điên đảo biến con người thành hư không. Đối với bản thân và gia đình, đối với bà Tú, từ đó người đọc cũng phần nào thấy được sự hy sinh cao cả của những người phụ nữ lúc bấy giờ hay của bà Tú đối với chồng.

Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu hoàn cảnh và cuộc sống mưu sinh của bà Tú, qua đó bày tỏ lòng biết ơn chân thành với người vợ tảo tần tảo tần của mình:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.”

Mạch cảm xúc của bài thơ mở dần ra với bức tranh toàn cảnh đầy vất vả, lo toan của bà Tú - tên thật là Phạm Thị Mận. Tác giả đã sử dụng “Quanh năm” – cụm từ chỉ khoảng thời gian dài lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên để diễn tả nỗi vất vả triền miên của bà Tú suốt tháng ngày này. tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, dù nắng nóng hay mưa dầm, vẫn không bỏ lỡ một giây phút nào. Chỉ thế thôi cũng đủ để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên về hình ảnh người vợ đầu tắt mặt tối mọi việc trong gia đình như bà Tú. Không dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian ấy còn góp phần làm nổi bật không gian, địa điểm buôn bán của bà Tư qua hình ảnh “mom sông”. Địa hình “mom sông” rất hiểm trở, đầy hiểm nguy khó lường bởi chỉ là một doi đất nhô ra lòng sông, nơi ngư dân thường tụ tập làm ăn nên khi thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở. Khoảng cách mong manh ấy sẽ dễ dàng bào mòn, gây ra nhiều rắc rối cho bà Tư. Khó khăn là vậy, gieo neo là vậy nhưng bà Tú vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn quyết tâm làm giàu cho gia đình mình:

"Nuôi năm đứa con với một người chồng."

Bằng giọng văn hóm hỉnh và tài hoa trong nghệ thuật trào phúng, câu thơ thứ hai như một lời lên án gay gắt xã hội phong kiến ​​xưa đã biến những người đàn ông vốn là trụ cột vững chắc của gia đình thành những kẻ xa lạ. Trò chỉ biết sống dựa vào vợ nhưng đặc biệt là "lương của vợ":

“Trống chưa dứt, tôi lên thang,
Hãy hỏi anh ta xem anh ta có kiếm được tiền lương của vợ không."

(Nhà văn – Trần Tế Xương)

Đôi vai bà Tư vốn đã nặng nề nay càng được nhân lên khi bà “cực chẳng đã” trở thành trụ cột chính trong gia đình. Hai từ “đủ nuôi” vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu cũng không thừa vang lên tạo cho câu thơ một giọng điệu trang trọng nhưng cũng không kém phần tự hào, lột tả được sự đảm đang đến tột độ ở bà với nghề làm ăn “quanh năm” bấp bênh. và nơi “mẹ sông” hiểm trở, bà vẫn đảm bảo được cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần cho “năm” người con và người chồng của mình. Không những thế, cách đặt hai danh từ đếm được “năm” và “một” song song với nhau tưởng chừng khập khiễng nhưng lại rất độc đáo, mới lạ. Tú Xương tự giễu mình khi so sánh mình với “năm đứa con” bởi ông là “đứa con cá biệt” đã ngầm nâng địa vị của người vợ lên một mức độ thiêng liêng khác với tư cách là một người “mẹ hiền” để có thể đánh giá đúng công lao của bà Tú trong cách hợp lý và chính xác nhất. Hơn nữa, cấu trúc “năm” - “một” và phép liên từ “với” chứa đựng bao nỗi tủi hờn, xót xa miêu tả chiếc sào gánh đôi vai giữa gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ. chịu thương chịu khó, đôi bên đều nặng gánh “năm con”, “một chồng” nhưng cái khó nhường nhịn phần nhiều nghiêng về người chồng ngỗ ngược do chế độ “trọng nam khinh nữ”. rẻ rúng trong xã hội cũ. Có thể nói, bà Tú “đầy đủ” cho Tế Xương không chỉ cho ông “chăn ấm nệm êm” mà còn lo cho ông đủ thứ xa hoa đắt tiền để ông mỉm cười vì sau tất cả. , Tế Xương vẫn là tú tài, người có quyền dự kỳ thi công:

“Biết thuốc là biết trà,
Cao lầu biết vị, hồng biết mùi.”

(Hỏi Trời – Trần Tế Xương)

Hoặc:

“Hôm qua tôi đến chơi,
Giày “joon” anh dám, “o Tây” anh cầm”.

(Đi mất ô – Trần Tế Xương)

Hai câu mở đầu bài thơ tuy chỉ gói gọn trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được hết những đức tính cao quý ở bà Tú với sự nhẫn nại, chịu khó, không quản nắng mưa để hoàn thành mọi việc. trong gia đình. Từ đó, Tú Xương cũng khéo léo bày tỏ lòng biết ơn đối với bà Tú, đồng thời cũng phần nào nói lên nỗi tủi hổ của tác giả khi là một người đàn ông mà không thể làm gì để giúp vợ đến mức phải đặt mình trong quan hệ với “năm người con”. . Thật đáng thương!

Thấu hiểu nỗi lo lắng, vất vả của người vợ lớn, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh “thân cò” xưa trong câu ca dao:

“Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc rưng rức”.

(Dân gian)

Diễn tả nỗi đau mà Bá Tử đang trải qua bằng hai câu thực:

“Lặn bão chỗ vắng
trên mặt nước vào mùa đông."

Tú Xương dùng “thân cò” chứ không dùng “thân cò” như trong ca dao xưa, vừa thể hiện cá tính riêng, sự sáng tạo thời đại trong phong cách thơ của nhà thơ, đồng thời xác định thân phận của mình. của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ nói chung với hình ảnh “thân cò” gầy guộc để nói lên những cơ cực trong cuộc đời của người phụ nữ trụ cột. Kế đến, chữ “thân” tuy giản dị nhưng nghe thật chua chát, luôn gợi cho người ta một điều gì thật nhỏ bé, đáng thương. Và xưa kia, nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ngậm ngùi bên trang giấy khi nói đến chữ “thân” của số phận:

“Thân em trắng tròn,
Bảy nổi chìm theo nước.”

(Bánh trôi)

“Khi không gian vắng” là một cụm từ rất đặc biệt bởi nó không chỉ gợi cảm giác rợn ngợp, cô đơn trước sự nguy hiểm đang rình rập bên bờ sông hoang lạnh lúc bấy giờ mà còn diễn tả sâu sắc nỗi buồn. khắc khoải về thời gian chia li và lần lượt cùng với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ của từ “lặn lội”, hình ảnh mộc mạc, giản dị của người phụ nữ gầy guộc, chân đất sống giữa rừng núi, sông nước về đêm - thời điểm mà bao người phụ nữ khác đang hạnh phúc. cùng chồng con say giấc nồng mong kiếm thêm thu nhập trang trải cuộc sống ngày càng dư dả. rực rỡ hơn trong sự cô độc đáng sợ của vùng đất bấp bênh.

Nếu câu thơ thứ ba gợi lên nỗi vất vả cô đơn thì câu thơ thứ tư là nỗi vất vả gian truân của bà Tú giữa cảnh mua bán tấp nập:

"Tuyệt vời trên mặt nước ở phía đông của con thuyền."

Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng trong thơ Tú Xương nhưng với từ tượng thanh “wao ôi” gợi lên sự hối hả, tấp nập để nhấn mạnh tính chất thường tình của chợ búa, xô bồ. lũ đàn bà “năm con một chồng”. Mặt khác, hình ảnh “ngày đông” cũng góp phần mạnh mẽ vào việc xây dựng hình ảnh bà Tú cần mẫn, tất bật, đông con mà ca dao xưa đã nhắc đến:

“Các con hãy nhớ câu này,
Đừng lội sông sâu, đừng qua đò đầy.

Dù văng vẳng bên tai là lời dạy chân thành của cha ông ta: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”, nhưng bà Tú vẫn nhất quyết dấn thân vào cuộc chiến tranh cãi âm thầm và dai dẳng. . “đói”, chen chúc, tranh giành khách, phân luồng với các sạp khác, bất chấp người qua kẻ lại đếm ngược khi “đò chật thuyền” để mưu sinh miếng cơm, manh áo cho chồng con vì chỉ khi nào Với lịch làm việc dày đặc như vậy, cơ hội kiếm thêm thu nhập sẽ tăng vọt “trong vắng” dù phải chịu nỗi đau khi “đầu đội trời, chân đạp đất”, thiệt hại về vật chất khi bị dòng người xô đẩy. . Ồ ! Thật là một người phụ nữ đầy tình thương, chị đã tự buôn bán, chen lấn bán từng gánh hàng kiếm từng đồng tiền ít ỏi lo cho cuộc sống của gia đình, thật đáng khâm phục!

Bằng phép đảo ngữ vừa giàu sức tưởng tượng vừa biểu cảm “bơi”, “eo sèo” ở đầu câu thơ, kết hợp với hai hình ảnh rất tương phản “trong vắng” - Trong hai câu thực, hình ảnh người vợ tháo vát mồ hôi nhễ nhại trong giữa chốn đông người vì phải tranh giành, rơi lệ giữa chốn hiu quạnh khi thấy một khách hàng xuất hiện với tất cả niềm kiêu hãnh của thi nhân. thể lực cường tráng và ý thức thép của chị ngay cả trong những hoàn cảnh khắc khổ nhất.

Sang đến những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như hòa mình vào chủ thể trữ tình mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi công lao thầm lặng của chồng vì mẹ Tú đang gánh trên vai:

“Một số phận, hai khoản nợ, số phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.

Theo quan niệm phong kiến ​​xưa, “duyên” và “nợ” là hai khái niệm hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định, bắt nguồn từ số mệnh, từ sợi chỉ hồng của ông tơ bà nguyệt.

"Đời còn dài, còn dài
anh xích cô Nguyệt chỉ hồng se duyên”

Thế nhưng, khi đi vào thơ của một nhà nho từng trải như Tú Xương, khái niệm nhường nhịn như mất đi sự cao quý và trở nên vô cùng nặng nề như một lời than thở khi “có duyên”, chỉ còn một “nợ” hai:

“Chồng nào, vợ nào,
Chỉ là nợ đời mà thôi”.

(Dân gian)

Không chỉ vậy, cách dùng của hai thành ngữ xưa song hành với nhau “Một duyên hai nợ” - “năm nắng mười mưa” vừa đối lập nhau về mặt từ ngữ: “một” - “hai”, “năm” - ​​ “mười”, Vừa đối lập về ý vừa khiến nhạc thơ bỗng lặng đi trước nỗi khổ tăng theo cấp số nhân của bà Tư m mà còn thể hiện rõ tài văn chương điêu luyện của nhà thơ khi biết vận may. tận dụng triệt để giá trị của những thành ngữ, con số dân dã để thần thánh hóa hình ảnh Bà Tư. Có thể nói, dù muôn vàn khó khăn, búa đen trước mắt, “của nợ” đeo bám bên mình nhưng bà Tú chưa bao giờ chùn bước mà chỉ kiên nhẫn gật đầu cho qua và ba chữ trên dưới đáp trả. : "Au phải đồng ý. Phần", "dám quản công" đã thể hiện điều đó. Nguyên nhân khiến bà Tú cần mẫn, thầm lặng, cam chịu thật giản dị nhưng cũng rất cao cả: đó là vì cái duyên tiền định và vì tương lai của các con bà. Thật là một người mẹ và người vợ giàu có, hy sinh!

Từ sự đan xen giữa thể thơ và thành ngữ đạt đến độ xuất sắc về nội dung với phép đảo ngữ vô cùng tinh tế và số nhân rất chân thực, chính xác, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công chân thực hình ảnh người vợ kết tinh đầy đủ đức hy sinh, nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó của một người Việt Nam truyền thống. người phụ nữ trong hai bài luận. Từ đó, anh cũng ngầm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân yêu khi cô đã quên đi cái tôi của mình và gánh vác mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thực vậy:

“Sinh con phải khổ vì chúng,
Có chồng thì phải gồng gánh gia đình nhà vợ”.

(Báu vật sáu bát dân gian)

Vì quá yêu vợ, xót xa cho thân phận người con gái mà mình lại đóng vai trò trụ cột, Tú Xương đã tự trách mình và qua đó cũng lên tiếng chua xót, căm phẫn cho định kiến ​​khó tránh “trọng nam khinh nữ”. đàn ông”. phụ nữ" đã biến anh ta thành một kẻ ngốc:

“Cha mẹ có thói quen sống không tốt,
Có chồng hờ hững hay không."

Mạch cảm xúc của bài thơ nhường như có sự chuyển biến đột ngột khi giờ đây, Tú Xương không còn “ẩn mình” sau những vần thơ ca ngợi vợ mà xuất hiện để nói thay nỗi oán hận chồng. , trách nhiệm của bà Tú. “Cha mẹ chung thủy” thực sự là một cách nói thô bạo, thô bạo nhưng lại rất phù hợp với phong cách thơ trào phúng của nhà thơ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “vui Tây Tàu” lúc bấy giờ không cho phép anh chia sẻ gánh nặng gia đình với vợ.

Ngoài ra, ít ai biết rằng đằng sau tiếng chửi dứt khoát ấy là cả một tấn bi kịch của một con người chứa đầy uất hận, đau đớn đến tê tái:

“Có chồng cũng hờ hững như nhau”.

Tú Xương chửi “đời” mà cũng “chửi” mình, “chửi mình” cho cái thói sĩ diện của một kẻ ngang tàng trên đường danh lợi, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than thân trách phận mà không biết đến mọi người. Những người xung quanh tôi đang đau khổ vì tôi. Tú Xương tự nhận mình là người vô tâm, “sống bạc” với vợ con, luôn “lãnh đạm” trong trách nhiệm, vai trò của một người cha, người chồng. Đúng là “có chồng sướng cũng như không”! Tuy nhiên, nếu nhìn lại sự việc một cách lạc quan, Tú Xương không đáng trách mà rất đáng thương bởi suy cho cùng, chính cái xã hội nhơ nhớp ấy đã đẩy ông, một tài năng kiệt xuất, vào ngõ cụt. để một người vợ thuộc dòng dõi quý tộc phải chịu đau khổ. Thật đau đớn!

“Con gái nhà gia giáo lấy chồng chợ búa”
Thanh âm có mảnh, gặp hay không?"

(Văn tế sống vợ – Trần Tế Xương)

Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự trách lạnh lùng của Tú Xương nhưng lại mang ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “tham tiền”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước chân của cô ra đường và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn với chồng. với vợ. Đoạn thơ kết thúc thật bất ngờ: vừa thấm đượm nỗi buồn, nỗi bất hạnh miền Tây của tác giả, lại vừa hóm hỉnh, hóm hỉnh.

Tóm lại, sau khi đi sâu phân tích bài thơ Thương vợ, ta thấy đây là một bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Bằng giọng thơ bình dị, trữ tình pha chút trào phúng, Tú Xương không chỉ khắc họa chân dung đẹp đẽ của người vợ tần tảo đảm đang mà còn thể hiện vẻ đẹp nhân cách của bà. Hình ảnh bà và hình ảnh bà Tú cần mẫn, lo toan là hình ảnh đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ: vừa mộc mạc, giản dị nhưng lại cương nghị, mạnh mẽ.

13. Phân tích bài Thương vợ của Tú Xương, đề số 13:

Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy của nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc bén, sử dụng tiếng cười làm vũ khí giễu cợt, đả kích sâu sắc bộ mặt xấu xa, đồi trụy của xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chan tâm tình của một nhà Nho nghèo. về tình người và tình yêu cuộc sống sâu sắc.

“Thương vợ” là bài thơ xúc động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Đó là một bài thơ tâm sự, đồng thời là một bài thơ thế sự. Đoạn thơ chan chứa tình yêu thương nồng ấm của nhà thơ dành cho người vợ hiền.

Sáu câu thơ đầu thể hiện hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. nếu vợ Nguyễn Khuyến là một người phụ nữ “giỏi giang, lưng đeo dùi, xăn váy xúng xính, chân đạp tất, việc gì tôi cũng giúp” (đôi câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là một đàn bà:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một chồng”

“Làm ăn quanh năm” là cảnh làm ăn tăm tối, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, không một ngày ngơi nghỉ. Bà Tú “làm ăn ở sông mẹ”, nơi có mũi đất nhô ra, ba mặt có sông nước bao bọc, nơi làm ăn là vùng đất bấp bênh. Hai chữ “mẹ sông” diễn tả một cuộc đời mưa nắng, một cuộc đời cơ cực, vất vả mưu sinh, để “một chồng nuôi năm người con”.
Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai người mẹ và người vợ. Thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, tiền, nhưng có ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào chất chứa nỗi niềm chua xót về một gia đình nhiều vấn đề: đông con, người chồng đang phải “ăn lương của vợ”.

Có thể nói, trong hai câu thơ ở tựa, Tú Xương đã ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ đảm đang, đảm đang của mình.
Phần thực, tô đậm chân dung bà Tú, cứ sáng tối ngược xuôi “bơi lội” làm ăn như “thân cò” ở “chốn xa”. Giọng thơ tăng thêm làm nổi bật nỗi vất vả của người vợ. Câu văn như đường nét, màu sắc nối tiếp nhau, bổ sung, tăng tiến; đã “lặn mất tăm” Lại còn “thân cò”, rồi “vắng bóng”. Nỗi vất vả mưu sinh ở “mom sông” dường như không sao kể xiết! Hình ảnh “con cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bên sông…”, “Con cò đi hứng mưa…”, “Con cò, con vạc, con cạn,.. được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ xúc động về bà Tú, cũng như thân phận éo le, bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Nuốt xác cò giữa đồng hoang
trên mặt nước phía đông thuyền”

“Eo sèo” là từ tượng thanh chỉ sự quấy rối bằng những tiếng gọi đòi hỏi, dai dẳng: tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã lúc “nước chảy” khi “đò chật thuyền”. Một đời "bơi", một đời "nghèo" kinh doanh. Nghệ thuật chuyên chính đã vượt qua hoàn cảnh cơ cực để kiếm được nhiều tiền. Với bát cơm manh áo, chị kiếm đủ “một chồng nuôi năm con”. “lặn lội” nắng mưa, phải tranh giành “eo biển”, phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt giữa gian khó! Tiếp theo là hai bài tùy bút, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, cân xứng hài hòa, đậm đà màu sắc dân gian trong cả cảm lẫn giọng. biểu thị:

“Một duyên, hai nợ, phận và phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”.

“Phận” là một định mệnh, một định mệnh đã định trước, một “món nợ” cuộc đời mà bà Tú phải cam phận, cam chịu. “Nắng” và “mưa” tượng trưng cho mọi gian nan, vất vả. Số từ trong câu thơ tăng dần: “một”, “hai”, “năm”, “mười” làm nổi rõ sự hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó, chịu thương chịu khó vì nhân nghĩa. của cải, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu mệnh”, “Dám quản công” với giọng thơ đầy ngậm ngùi, trắc ẩn, thương thân, thương thân nhiều ngang trái.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu với lòng biết ơn, ngưỡng mộ, Tú Xương đã phác họa vài nét rất chân thực, xúc động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền của ông với nhiều đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, âm thầm. hy sinh vì hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện tài năng điêu luyện trong sử dụng giọng điệu và tạo hình. Các từ láy, các con số, các phép so sánh, thành ngữ và hình ảnh “thân cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.

Hai câu cuối, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi của địa danh “mom sông” lúc “đò đông ngày đông” đưa vào lời thơ rất tự nhiên, giản dị. Anh tự trách mình:

“Cha mẹ có thói quen sống không tốt,
Có chồng hờ hay không!"

Tự trách mình “ăn lương vợ”, nhưng lại “ăn bạc”. Vai trò người chồng, người cha không giúp được gì, trống rỗng, thậm chí “thờ ơ” với vợ con. Lời tự trách sao mà đau đớn quá! Ta đã biết, Tú Xương có tài lớn nhưng công danh dang dở, thi cử dài dài. Sống giữa một xã hội “xấu Tây, xấu ta”, xấu cả chữ Nho, khi “ông Nghè, ông Cống cũng đã nằm xuống”, nhà thơ tự trách mình và cũng trách cuộc đời đen bạc. Ông đã không dành thời gian để làm rạng danh gia tộc “tối uống rượu sâm banh, sáng uống sữa bò”.

Hai câu kết là cả một nỗi lòng và một câu chuyện buồn, tiếng nói của một trí thức giàu có, nặng lòng với đời, thương vợ thương con và một thương gia nghèo. Tú Xương thương vợ cũng như thương mình: nỗi đau mất mát của nhà thơ khi cuộc đời đổi thay!

Bài thơ Thương vợ được viết theo thể thơ bảy chữ. Giọng thơ giản dị như tiếng nói đời thường trong “mom sông” của những người buôn bán nhỏ cách đây cả thế kỷ. những chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa mang tính cá biệt (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa mang tính khái quát sâu sắc (người phụ nữ xưa). Hình ảnh thơ cô đọng, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia đạo càng làm tăng thêm nỗi đau của cuộc đời. “Thương vợ” là một bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương viết về người vợ của mình, một người phụ nữ xưa với nhiều đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nhắc đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một vị trí vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên anh sẽ sống mãi với Non Côi, sông Vị.

Thương vợ là ông Tú đồng cảm, kính trọng vợ, đồng thời cũng là nỗi buồn tự trách mình là chủ gia đình mà không làm tròn trách nhiệm. Để tìm hiểu về bài thơ, các bạn có thể tham khảo tại: Soạn bài Thương vợ , Đọc hiểu bài thơ Thương vợ, Cảm nghĩ về bài thơ Thương Vợ Bản đồ tư duy Thương vợ.

14. Cảm nghĩ về bài thơ Thương vợ

Nhắc đến các nhà thơ trào phúng trung đại, người ta nghĩ đến đầu tiên có lẽ là Trần Tế Xương. Quả thật, thơ ông có nét đặc sắc nhất, nó không nhẹ nhàng mà thâm thúy, thâm thúy như Nguyễn Khuyến mà chua chát, cười mỉa trước những sự đời. Cũng như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng có thơ tự cười mình, không chỉ cười xã hội mà cười chính mình. Và chính vì thế mà khi Nguyễn Khuyến có bài Tự sự thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ gợi lên tình cảm của nhà thơ đối với vợ nhưng đồng thời nội dung bài thơ cũng thể hiện tiếng cười về sự bất tài của Trần Tế Xương.

Hai câu thơ mở đầu Trần Tế Xương kể về nỗi vất vả của người vợ yêu thương. Đó là sự chăm chỉ thể hiện và mục đích của công việc đó:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,

Nuôi năm đứa con với một chồng”

Hình ảnh người vợ của Trần Tế Xương hiện lên như bất kỳ người phụ nữ, người mẹ nào trong hình hài một bà già buôn bán cơ cực. Cứ thế, bao nhiêu hình ảnh giản dị hay đảm đang của người phụ nữ xưa hiện ra. Đó là hình ảnh người phụ nữ áo nâu gồng gánh gánh hàng trên đôi vai nhỏ bé ra chợ rồi lại từ chợ về nhà. Vợ nhà thơ cũng xuất hiện với hình ảnh và tác phẩm như vậy. Điều đặc biệt là công việc được tổ chức đều đặn qua hai chữ “quanh năm”. Người phụ nữ đó làm việc chăm chỉ quanh năm và làm cùng một công việc năm này qua năm khác. Tuy nhiên, vị trí không phải trên mặt đất bằng phẳng mà ở dòng sông mẹ, gợi sự gian khổ và nguy hiểm. Tương tự, vợ của nhà thơ là một người không chỉ vất vả mà còn phải đương đầu với nguy hiểm. Nhưng bà làm như vậy chẳng được tích sự gì, chẳng những nuôi thân mà còn nuôi “năm đứa con với một chồng”. Ở đây nhà thơ đang tự cười chính mình. Người chồng cũng trở thành con số ngang hàng với những đứa con trong gánh nặng của người vợ. Không những thế, việc “đủ ăn” còn chứng tỏ sự gánh nặng của người vợ kia. Giờ gánh hàng nhẹ ấy không chỉ của bà, mà còn có năm người con cùng người chồng trên đó.

Ở hai câu thơ tiếp theo, người chồng liêu xiêu tiếp tục thể hiện tình yêu thương vợ và những vất vả mà bà Tú phải trải qua hàng ngày:

“Nuốt xác cò nơi vắng,

trên mặt nước vào mùa đông."

Người chồng vốn được coi là trụ cột của gia đình không chỉ về mặt ý thức mà còn về kinh tế, nay lại trở thành gánh nặng cho người vợ. Ba Tu phải vượt qua những nguy hiểm khi đi trên những con đường vắng vẻ. Hình ảnh con cò trong ca dao xưa tượng trưng cho người phụ nữ nghèo khổ đã được nhà thơ sử dụng trong bài thơ của mình. Không biết bao nhiêu rắc rối, nguy hiểm đang rình rập và nuốt chửng vợ anh. Vượt qua bao hiểm nguy, khó khăn, bà Tú vẫn đi chợ mẹ sông trên những con đò chật hẹp với tiếng rao của người mua kẻ bán. Họ đang phải mặc cả với nhau từng đồng để lo cho gia đình.

Và rồi nhà thơ nói về nhân duyên của mình với vợ và như thay mặt vợ nói lên tiếng thở dài ngao ngán trước người chồng nặng nề như đứa con thứ sáu trong nhà:

“Một số phận, hai khoản nợ, một định mệnh,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công. "

Người xưa thường có quan niệm về duyên và nợ, hai người lấy nhau là có duyên nợ từ kiếp trước, nếu yêu nhau mà không lấy được nhau thì đó là có duyên nhưng không. món nợ. Ở đây, bà Tú có duyên với các thi sĩ nên mới phải chịu cảnh khổ cực như vậy. Một chữ duyên, hai chữ nợ, hãy cứ bên nhau mà sống. nhà thơ đã bày tỏ nỗi vất vả của vợ mình qua “năm nắng, mười mưa”. Câu thơ ấy như gợi lên sự nặng nề mà trong ca dao cũng được nhắc đến là “một nắng hai sương”. Có thể thấy, chính số đếm cụ thể đã làm nên sự vượt trội của gánh bà Tư. Nhưng Bà Tú lại càng xuất hiện xinh đẹp hơn khi không gánh trên vai gánh nặng ấy. Cô yêu chồng, thương con và hy sinh cho chồng con không một lời than thở.

Nhưng chính sự không than vãn, hi sinh đó lại khiến nhà thơ không thể yên lòng:

“Cha mẹ sống một đời bạc mệnh:

Có chồng hờ hay không!"

Thương vợ Trần Tế Xương như tự cười mình và hai câu thơ cuối này là tiếng chửi lớn nhất, sâu sắc nhất. Tác giả thấy mình không giúp được gì cho người vợ chân yếu tay mềm hơn mình rất nhiều, thầm nghĩ có chồng cũng không ổn. Phải chăng nhà thơ đang tự nguyền rủa và dằn vặt mình vì không nuôi được vợ?

Ở đây ta thấy nhà thơ Trần Tế Xương bày tỏ tình yêu vợ sâu sắc. Bài thơ như một bức thư, một dòng nhật ký mà nhà thơ muốn gửi đến người vợ của mình. Đặc biệt, bản thân anh cũng nhận thức rõ sự vô dụng của mình và cảm thấy xấu hổ, tự nguyền rủa mình. Tóm lại, dù thế nào, qua đây ta cũng biết được tâm trạng, tình cảm của Trần Tế Xương đối với vợ.

15. Phân tích bài Thương vợ của nhà thơ Tú Xương, văn mẫu số 15:

Thơ xưa viết về vợ đã ít, viết về vợ khi còn sống lại càng hiếm. Thi sĩ thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Cũng là một điều nghiệt ngã khi người vợ bước vào cõi trời bước vào cõi thơ.
Bà Tú Xương có thể phải chịu nhiều khổ cực của thế gian, nhưng bà có một hạnh phúc mà người vợ cũ của bà không có: Ngay khi còn sống, bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả tình yêu, sự kính trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương có một phần lớn viết về vợ, bài Thương vợ là một trong những bài hay nhất.

Tình yêu thương vợ sâu nặng của Tú Xương được thể hiện qua sự thấu hiểu những nỗi vất vả và phẩm chất cao quý của vợ.
Câu thơ mở đầu nói về hoàn cảnh làm ăn của bà Tú. Hoàn cảnh khó khăn, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nói địa điểm. Quanh năm, quanh năm không kể ngày mưa nắng. Quanh năm cũng là năm này qua năm khác đến chóng mặt, đến tan rã chứ không chỉ một năm. Nơi bà Tú kinh doanh là mẹ con sông, vùng đất nhô ra như lời giới thiệu, lại như làm nền cho hình ảnh bà Tú tất bật ngược xuôi:

Kinh doanh quanh năm ở mom river.

Cảm nhận sâu sắc nỗi vất vả, cực nhọc của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Tuy nhiên hình ảnh con cò trong ca dao đã đầy đáng thương mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn đáng thương hơn. Con cò trong thơ Tú Xương hiện ra không chỉ trong cái rùng rợn của không gian (giống như con cò trong ca dao) mà còn là cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba chữ, khi vắng tác giả, tác giả có thể nói lên cả thời gian, không gian xa vắng, rợn ngợp, đầy lo âu và rùng rợn của thời gian, đã làm mất đi toàn bộ ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:

Lặn tìm cò nơi vắng

Đó là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ - đặt từ “lặn lội” ở đầu câu, cách thay từ láy - thay từ cò bằng thân cò càng làm tăng thêm nỗi vất vả của bà Tú. Chữ thân cò gợi nỗi đau thân phận, so với người con của Tú Xương còn sâu lắng, thấm thía hơn.
Nếu câu thơ thứ ba gợi lên nỗi vất vả đơn côi thì câu thơ thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

mặt nước trong thời gian mùa đông

Câu thơ gợi lên cảnh tiểu thương chen lấn nhau dạo chơi trên sông. Cạnh tranh chưa đến mức chém giết nhau, nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Đò đông người không bớt lo, nguy hiểm hơn khi đường xa. Trong ca dao, người mẹ đã từng dặn con: Nhớ câu này con ơi/ Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Bữa tiệc thuyền đông” không chỉ đầy những lời phàn nàn, cằn nhằn, cau có, chen lấn, mà còn chứa đầy những bất ổn nghiêm trọng. Hai câu thực ra đối lập nhau về ngôn ngữ (lúc có chỗ trống cho đò đông) nhưng lại thừa về ý nghĩa để cùng vượt qua nỗi gian truân của bà Tú: vất vả, cô đơn, vất vả hơn trong cuộc đời. tình hình kinh doanh sầm uất.

Hai câu thực nói lên cảnh thực của bà Tú đồng thời cho ta thấy một tấm chân tình của Tú Xương: tấm lòng nhân hậu.
Cuộc sống vất vả, gian khổ càng làm sáng lên những phẩm chất cao đẹp, cao đẹp của bà Tú. Bā là một người tháo vát:

Nuôi năm đứa con với một người chồng

Mỗi chữ trong câu thơ của Tú Xương chứa chan bao tình cảm, đủ chữ trong nâng đủ để nói lên đồng thời lượng và chất. Bà Tư nuôi cả con, cả chồng, đảm đang: “Bữa hai bữa cá kho rau muống – Bữa chiều khoai lang, cơm ngô” (Cô giáo dạy).
Trong hai bài tùy bút, Tú Xương một lần nữa cảm phục đức hy sinh cao cả của vợ:

Bao năm nắng mưa dám quản công

Trong câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng ít, nói số nhiều, được tách ra để tạo thành ngữ chéo (năm nắng mưa) vừa chỉ sự vất vả. chăm chỉ làm ăn, đồng thời thể hiện đức tính chịu thương, chịu khó, tâm huyết với chồng, vì con.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, ta luôn bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện đằng trước, ông Tú khuất đằng sau. Khi bạn nhìn thấy một mớ hỗn độn, ấn tượng sâu sắc. Trong bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không trực tiếp xuất hiện nhưng vẫn hiện diện trong từng câu thơ. Đằng sau lối kể hài hước, trào phúng là cả một tấm lòng không chỉ yêu thương mà còn biết ơn vợ. Về câu ca: “Một chồng nuôi năm con”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là con riêng để bà Tú nuôi. Tú Xương không gộp mình với con để nói là riêng, con ghẻ rất riêng để một mình ông biết ơn vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn đức hy sinh hết sức của vợ mà còn tự trách, lên án chính mình. Anh không dựa vào số phận để chịu trách nhiệm. Ba Tú lấy anh vì có duyên nhưng là nợ hai người. Tú Xương tự nhận mình là món nợ mà bà Tú phải gánh. Nợ ân đôi, ân ít nợ nhiều. Ông nguyền rủa thói đời bất hiếu, bởi thói đời là nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú đau khổ. Nhưng Tú Xương không trách thói đời. Sự thờ ơ của anh ấy với con cái cũng là biểu hiện của sự không chung thủy trong cuộc sống. Câu thơ Tú Xương tự chửi mình cũng là lời tự xét mình, tự lên án:

Có chồng hờ hững hay không?

Ở cái thời mà xã hội có luật bất thành văn đối với phụ nữ: “tông phụ, tòng phụ” (phu thê theo chồng) thì đối với quan hệ vợ chồng là “phụ mẫu, phụ tòng” (chồng nói, vợ theo nết). ), thế mới có nhà Nho dám sòng phẳng với mình, với thiên hạ, dám nhận mình là kẻ làm lương cho vợ, chẳng những đã thấy khuyết điểm mà còn dám nhận khuyết điểm. Một người như vậy không đẹp lắm.
Nhan đề Thương vợ chưa thể hiện hết chiều sâu tình cảm của Tú Xương dành cho vợ, cũng như chưa thể hiện hết vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ yêu vợ mà còn cảm ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách mình.
Nhà thơ dám nhận khuyết điểm của mình, càng thấy mình thiếu sót thì càng yêu và kính trọng vợ.

Yêu thương, kính trọng vợ là một tình cảm có phần mới lạ so với những tình cảm quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ ấy được thể hiện bằng những hình ảnh, giọng văn dân gian quen thuộc, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương tuy mới mẻ, độc đáo nhưng vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn còn sâu xa trong nhân gian. tiềm thức dân tộc.

16.  Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ

Trong lịch sử văn học nước ta, những bài thơ viết về vợ không nhiều. Bởi vậy, thơ hay viết chân thực, sâu sắc, giàu cảm xúc về đề tài này lại càng hiếm hoi. Vì vậy, có thể coi Trần Tế Xương là một trường hợp đặc biệt. Trong thơ ông nhiều lần nhắc đến vợ.

Khi đó bảng vàng bia đá ngũ lê vì thể diện của vợ. Hỏi quan lương của vợ. Lại đem chuyện trăm năm ra bàn. Khi đó Vuốt râu nịnh vợ con . Một lần nữa Viết trên nhãn dán ngay trên cột . Hỏi mẹ mày ngu hay ngoan. Hứng thú và ngông nghênh hơn, nhà văn đã viết văn hiến tế đời vợ. Nhưng đỉnh cao của mảng thơ này phải nói là bài thơ Yêu vợ tôi :

Làm ăn quanh năm ở mom river

Nuôi năm đứa con với một người chồng

Lặn tìm cò nơi vắng

mặt nước trong thời gian mùa đông

Một duyên hai nợ

Bao năm nắng mưa dám quản công

Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng hờ hay không!

Đây là một bài thơ dân gian trữ tình - trào phúng đầy cảm động. Để bày tỏ tình yêu thương, lòng biết ơn và sự kính trọng đối với người vợ của mình, nhà thơ đã miêu tả những nỗi vất vả của bà, người phụ nữ một mình tần tảo nuôi con và chồng. Qua đây ca ngợi đức tính dũng cảm, đức hi sinh thầm lặng cao cả của một bậc hiền nhân.

Ở hai câu thơ đầu, Tú Xương nói về sự vất vả, nhẫn nhịn của người vợ một cách tự nhiên, gần gũi, hóm hỉnh và hóm hỉnh. Anh vừa giới thiệu gánh nặng chồng con trên vai chị vừa gián tiếp thể hiện tình cảm sâu nặng với vợ:

Làm ăn quanh năm ở mom river

Nuôi năm đứa con với một người chồng

Hai câu thơ là một câu nói về thời gian. Ở câu thơ đầu, bản thân việc làm ăn chưa đủ thể hiện sự chăm chỉ, kiên nhẫn mà hoàn cảnh thời gian (quanh năm) và hoàn cảnh không gian (trong dòng sông mẹ) đã nói lên khá rõ điều đó. .

Quanh năm, chỉ hai tiếng ấy thôi cũng chứa đựng biết bao thời gian liên tục không dứt, từ đầu năm đến cuối năm, dù mưa gió, dù nắng, lúc nào cũng như lúc nào, cô vẫn trong kinh doanh. Đó là tình hình thời gian. Còn tình hình mặt bằng, kinh doanh ở đâu? Đó là sông mẹ. Theo giáo sư Lê Trí Viễn, sông là địa thế thừa lục ba mặt đều có nước đổ vào sông lúc nào không hay (Lê Trí Viễn - Bài giảng tại trường đại học , Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1982). Ba Tu phải làm ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm khác, làm ăn trên dòng sông mẹ bấp bênh ấy.

Tại sao cô ấy phải làm việc chăm chỉ như vậy? Câu thơ thứ hai trả lời rõ ràng:

Nuôi năm đứa con với một người chồng.

nhà thơ nâng vợ lên bề ngang gia đình. Cả một gánh nặng mưu sinh đã đặt lên vai người phụ nữ. Bà quanh năm làm lụng, vất vả, bất chấp hiểm nguy, gieo neo để nuôi năm người con và người chồng tức sáu miệng ăn đủ thứ, không kể mình. Nhưng đồng thời, ông cũng tự hạ thấp mình xuống ngang hàng với các con, hay nói đúng hơn là ông đứng cuối hàng sau năm đứa con để trở thành người thứ sáu. " Với một người chồng "Rõ ràng là kẻ ăn theo, ăn bám con. Nhà thơ tự thấy mình là gánh nặng cho vợ. Cách nói ấy hàm ý vừa biết ơn, vừa tự hào, vừa pha chút ân hận, ăn năn, mỉa mai trong một cách hóm hỉnh yên tĩnh.

Tiếp theo là hai câu kết nhà thơ đã thể hiện tình yêu thương vợ qua việc trình bày sự vất vả, neo người và cũng là lòng dũng cảm của bà Tú:

Lặn tìm cò nơi vắng

mặt nước trong thời gian mùa đông

Mượn hình ảnh con cò đơn côi, vất vả trong ca dao xưa: con cò lội sông… ông đã trau chuốt thêm bằng bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình. Nếu ca dao thường dùng hình ảnh con cò để so sánh, miêu tả gián tiếp người phụ nữ, cụ thể hơn là người vợ, người mẹ thì ở đây Tú Xương đã trực tiếp đồng nhất thân cò với thân cò. danh tính của vợ. Nhà thơ lại sử dụng phép đảo ngữ Môn lặn để nhấn mạnh sự vất vả, nhọc nhằn của người vợ. Hơn nữa, khung cảnh không gian kiếm ăn của con cò ở đây không phải là bất cứ bến sông nào, có thể sôi động, tấp nập, tươi vui hay tĩnh lặng, nhưng đều được nhà thơ xác định rõ ràng là một khoảng không gian trống trải. Tất cả những điều vừa phân tích đều có ý nghĩa và đã nói lên những nỗi vất vả thầm lặng của người vợ với số phận thân cò.

Đoạn thơ tiếp theo nói thêm về cuộc vật lộn mưu sinh của bà Tú. Gặp phải bến đò đông đúc (bến đông hay đò đông), cô cũng phải chịu cảnh chen lấn, tranh giành lời qua tiếng lại để mặc cả như ai. Vốn xuất thân dòng dõi, gì gì cũng là bà Tư nên cô cũng phải bóng bẩy phong trần. Nhà thơ hơn ai hết thầm thương cảm cho hoàn cảnh và sự hy sinh thầm lặng của vợ. Chỉ vì gánh nặng cơm áo cho chồng con mà bà Tú đã lao vào quên cả gian nguy, vất vả... Câu thơ này tuy không được trích trực tiếp từ ca dao nhưng vẫn phảng phất một chút tình cảm: "" Con đi đi, mẹ dặn thế này, sông sâu đừng lội, đò đầy đấy”. . Đó là một thông điệp gửi đến cơ thể của một cô gái để giữ cho riêng mình. Nhưng ở đây chỉ vì chồng con, bà Tú đành lòng bỏ ngoài tai lời khuyên đó.

Chỉ với hai câu thơ với những từ ngữ gợi tả, cảm động, Tú Xương đã thể hiện rõ hình ảnh người vợ tần tảo, một mình bươn chải trong khung cảnh của không gian và thời gian. khốn khổ nhất, neo đậu nhất, đáng thương nhất và đầy sợ hãi. Nhiều người cũng cho rằng đây là hai câu hay nhất của bài thơ. Theo GS Nguyễn Đăng Mạnh, với hai câu thơ này, Tú Xương không chỉ khái quát những vất vả, cơ cực, nhọc nhằn của bà Tú mà còn gợi ra cảnh buôn bán nơi chợ búa ở bến sông tỉnh Nam Định. một thời gian.

Nếu như bốn dòng đầu của bài thơ là sự phân tích trọn vẹn của ông Tú về người vợ của mình thì bốn câu sau lại thể hiện giọng bà Tú than thở, tự trách mình. Nói chính xác hơn, ở đây nhà thơ không đứng ngoài cuộc trình bày một cách khách quan nữa, ông đã nhập vào nhân vật để thảo ra những lời than thở cho vợ mình một cách chủ quan hơn:

Một duyên hai nợ

Bao năm nắng mưa dám quản công

Duyên, tiếng Phật có nghĩa rất rộng. Trong mối quan hệ vợ chồng, nhân duyên là căn nguyên nên vợ chồng mới nên duyên vợ chồng hay nên duyên vợ chồng. Từ ý nghĩa vừa nói, chúng ta đã tạo ra một cặp khái niệm đối lập nhau: duyên và nợ (một duyên, hai nợ, ba tình.). Tương tự trong dân gian “một duyên hai nợ” ám chỉ sự may mắn trong cuộc đời người phụ nữ. Nhưng ở đây đối ngẫu với câu dưới. Duyên hai nợ trong câu thơ của Tú Xương lại mang một ý nghĩa khác: một và hai không còn là một phép tính nữa mà là một phép tính, một phép nhân: một mà nợ hai thì ít mà nợ nhiều. . Bà Tú lấy được ông Tú cũng là điều tốt, suy nghĩ cho kỹ đi. Anh ấy cũng vượt qua một chút so với những người bình thường. Đó là nó. Nhưng anh là người chồng tồi, khoán trắng. tiền cho con kiếm được; Hỏi quan mà biết lương vợ… đúng là nợ đời. Phận thì ít mà nợ thì nhiều, như nhau.

Nỗi vất vả, cực nhọc của thân cò trong câu thơ trên đã được nâng lên tầm mức gian nan, vất vả của một số phận là số phận của cả một đời người sao mà nặng trĩu, cay đắng. Nếu là số phận thì chắc buồn lắm. Au có nghĩa là màu cam, nhưng cũng có nghĩa là màu cam. Một câu thơ mà hai lần cam chịu. Vì nhẫn nhục nên năm nắng mưa dám quản công. Dù mưa nắng thế nào (năm nắng mười mưa), cô vẫn không quản ngại, không tiếc công sức của mình. Dám quản công không những có ý nghĩa như vừa nói mà còn thể hiện sự khiêm tốn. Nổi lên trong hai câu thơ là sự hy sinh thầm lặng, nhẫn nhịn của người hiền nhân. Đây cũng là đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Ta mới thấy tình yêu vợ của nhà thơ sâu sắc và thấm thía biết bao.

Rốt cuộc, hai dòng kết của bài thơ là một lời nguyền:

Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng hờ hay không!

Từ lời của Từ, nhà thơ nguyền rủa sự bội bạc, tráo trở của người chồng, tức là của chính mình. Tất cả sự thương hại cho người vợ cùng với sự không thể giận bản thân và giận cuộc đời của anh đã được lắng đọng trong lời nguyền đầy day dứt, đáng thương đó. Nhưng anh có thực sự bội bạc, vô tâm với vợ? Điều này thật khó để trả lời.

Nhưng cuối cùng, bài thơ này đã phần nào trả lời câu hỏi đó. Hơn nữa, coi mình không bằng cũng không phải người thừa, kẻ sống cũng như người chết dửng dưng, tuy là tự nguyền rủa mình nhưng cũng là sự ngợi ca, cảm kích công lao của vợ. Tuy là tiếng chửi nhưng hai câu thơ kết vẫn đầy màu sắc vui nhộn. Lời phán xét, tự trách của nhà thơ cũng là một cách thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với người vợ của mình. Anh nói sống bạc nhưng lòng anh không bạc, không thờ ơ với cô chút nào.

Vì thế Yêu vợ tôi Đó là một bài thơ hay cho ta hình dung được tình yêu chân thật, sâu sắc của nhà thơ dành cho người vợ đã chịu thương, chịu khó, chịu thương chịu khó, hi sinh, lao nhọc, vất vả thầm lặng vì vợ. gánh nặng của chồng. Với thể thơ trữ tình giàu hình ảnh, nhạc điệu, giọng điệu tự nhiên, dân dã, nhà thơ không chỉ gửi gắm tâm tư tình cảm mà còn dựng nên một bức chân dung truyền thống bất hủ của nhà thơ. Người phụ nữ Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất đáng quý như dũng cảm, cần cù, nhẫn nại và đức hi sinh.

17. Bài văn phân tích bài Thương vợ, văn mẫu số 17:

Trần Tế Xương (bút danh Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng độc đáo nhất trong nền văn học nước nhà. Thơ trào phúng, đả kích, đả kích của Tú Xương được nhiều người yêu thích vì đậm chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương có lúc được tách thành những dòng thơ trữ tình trong sáng, sâu lắng. Hai tuyệt bút "Sông lấp" và "Thương vợ" tiêu biểu cho dòng trữ tình của Tú Xương.
Đoạn thơ sau là bài thơ Thương vợ của Tú Xương:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.
Bơi thân cò khi đường xa,
trên mặt nước vào mùa đông.
Một duyên hai nợ,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,
Có chồng hờ hay không!"

Trần Tế Xương ở lâu trong kỳ thi, đi thi đến lần thứ tám đỗ tú tài. Anh học giỏi nhưng ngu quá, thực ra cái thái độ ngu đó của anh là một cách phản đối chế độ thi cử lậu, quan trường “lún” lúc bấy giờ. Nếu đỗ tú tài thì cũng trở thành “quan viên tại gia”. Khi đó phải đỗ cử nhân mới được bổ làm tri huyện. Chính vì thế mà bà Tú sắp phải nuôi chồng cho đến hết đời. Ông Tú chỉ biết mang hoa đến tạ tội cho bà Tú:

“Quanh năm làm ăn trên sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.”

Chữ “mẹm” thật hay, vừa thấy được nỗi vất vả của bà Tú quanh năm làm ăn bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với công việc buôn bán nặng nhọc của vợ. Từ “mẹ” là sự tổng hợp nghĩa của các từ mép, bờ, ghềnh, thềm, thành một từ láy sáng tạo đầy chất thơ làm giàu tiếng Việt. Bà Tu quanh năm buôn thúng ở “mom sông” nơi bà tần tảo nuôi chồng con:

“Một chồng nuôi năm con”

Câu thơ chỉ vài con số khô khan mà đắt giá lắm! “Nuôi năm con” là vì con, phải nuôi, nên tính ra phải nuôi. Nhưng chồng là một chồng, không phải là nhiều chồng sao cứ phải tính “một chồng”? Vì chồng còn phải nuôi, mẹ bà Tú với gánh nặng trên vai nuôi năm đứa con đã vất vả rồi, thêm một ông Tú trong nhà, gánh nặng lại nhân đôi. Lúc đó, khó khăn lắm mới nuôi được một ông Tú, Tú Xương nữa.

Nhưng bà Tú được an ủi vì ông Tú, tưởng chỉ biết đùa cho vui, đã để ý đến bà từng bước đi trên phố buôn bán:

“Nuốt xác cò nơi vắng,
trên mặt nước phía đông thuyền”

Có thể nói, tình yêu vợ của nhà thơ đã nảy nở trong hai câu thơ này. Hình ảnh con cò lặn lội được mô phỏng theo một biểu tượng trong thơ ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh nặng làm chồng dở khóc dở cười”

Nếu đảo từ “lặn lội” lên trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú thì từ “lặn lội” gợi âm thanh lẫn lộn (tiếng mặc cả, tiếng cãi cọ). của "ngày đông". Hai tình huống tương phản rất hay: “vắng” và “đông”. Người đàn bà gánh hàng đi trên đường vắng thật khổ. Đến chỗ “đông thuyền” mới thực sự đáng sợ! tức là từ phía nào, nhà thơ cũng yêu vợ, tình yêu thật thấm thía và cảm động.
Bước sang hai bài luận, tác giả chuyển sang miêu tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như một lời độc thoại của người vợ:

“Một số phận, hai khoản nợ, số phận,
Năm nắng mười mưa, dám quản công."

Người ta thường nói “vợ chồng là duyên số”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ ra từ ghép “nợ” thành hai từ đơn: “nợ - duyên”. “Món nợ” vốn đã thiêng liêng vì có sự tham gia của một đấng vô hình (Ông ba bà Nguyệt), và “món nợ” đã trở thành một trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả sự vận động trong tâm trí bà Tú. “Một duyên hai nợ” là ở chỗ, bà Tú đã thuận theo lòng trời và lòng người (chính là lòng bà!). Tóm lại là bà Tư nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân tiền định này, nàng đã chấp nhận một chàng trai khờ khạo “không phạm quy”, nàng chấp nhận viên quan “ăn lương vợ” nên chẳng “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa, dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng một cách sáng tạo để tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói rằng những con số trong thơ Tú Xương rất thần thánh. Tôi đã thấm thía với hai con số năm – một trong câu luận đề (Một chồng nuôi đủ năm con). Bây giờ là sự kỳ diệu của những con số một - hai và năm - mười trong câu thơ. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa” cho thấy những vất vả cứ chồng chất, bà Tú đã nhẫn nhịn chịu đựng hết.
Trước người vợ tài giỏi, tần tảo, chịu đựng mọi cực nhọc để “một chồng nuôi năm con”, nhà thơ chỉ biết tự trách mình.

“Cha mẹ có thói quen sống không tốt,
Có chồng hờ hay không!"

Vì quá yêu vợ nên nhà thơ tự trách mình, trách nặng. “Bố mẹ có thói đời…” rồi nặng lời xúc phạm tôi. Thực ra đó là một cách ông Tú khiêm tốn để công lao của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương không phải là người “hốt bạc”. Ăn uống thì có, “vô tư” nữa thì nhà thơ đã nói thật rồi, nhưng không tình, không nghĩa. Sắt thép có quyền lực mà lại mềm mỏng với vợ như thế mới là người đáng nể.
Bao nhiêu công lao trong gia đình, ông Tú dành hết cho bà Tú, ông chỉ nhận được một chữ “không”. Nhưng ngẫm ra thì ông Tú cũng xứng đáng với bà Tú vì trên đất nước cần cù, khó khăn này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là có thể bước vào cõi thơ, cái cõi bất tử!

Phân tích Thương vợ của Tú Xương, ta cảm nhận được hình ảnh người phụ nữ tài giỏi, chăm chỉ, hết lòng chăm lo cho chồng con. Bà Tú mang những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

18. Bài văn phân tích bài Thương Vợ, văn mẫu số 18:

Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, là một tác gia nổi tiếng với nhiều tác phẩm trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống đến 37 tuổi và học đến tú tài, nhưng sự nghiệp thi ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn, phú, câu đối,... Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Thương vợ. Bài thơ ẩn chứa trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ Tú Xương viết như sau:

“Quanh năm làm ăn ở mom sông
Nuôi năm đứa con với một người chồng.
Lặn tìm cò nơi vắng
trên mặt nước vào mùa đông.
Một duyên hai nợ, một duyên
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời bạc mệnh!
Có chồng hờ hay không!"

Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ, chia làm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi vế hai câu nhằm khắc họa sắc nét hình ảnh bà Tú - vợ Tú Xương, cũng như thể hiện phần nào hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa.
Ở hai đề, Tú Xương đã giới thiệu khái quát về tác phẩm của bà Tú. Là nghề kinh doanh “quanh năm” ở mẹ sông, nghề này không có cửa hàng hay vốn liếng nhiều. Nghề này vất vả, nặng nhọc, thu nhập bấp bênh nhưng bà Tư vẫn “gồng gánh” nuôi 5 đứa con với người chồng mà không một lời than thở. Trong câu này, tác giả tách mình ra một bên, một bên là con nhằm nhấn mạnh rằng, dù đỗ tú tài nhưng ông không được ra làm quan, phải gánh cả gánh nặng lên vai. vợ, người anh yêu. Câu thơ như một lời trách móc nặng nề của tác giả đối với chính mình nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được tình yêu mà Tú Xương dành cho người vợ của mình.

Để miêu tả cụ thể hơn những vất vả lao động của bà Tú, trong hai câu kết tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để chuyển thành “thân cò” để chỉ sự vất vả. của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày ở nơi “xa xôi”. Không chỉ vậy, Tú Xương còn tóm tắt một cách sinh động cảnh bán lẻ trên dòng sông quê mẹ của bà Tú qua câu “nước xiết thuyền đông”. Đó là hình ảnh bát nháo, tranh chấp của nhiều người có nghề như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú gặp nhiều khó khăn, vất vả.

Sự vất vả của bà Tú hẳn không dừng lại ở hai phần và nó thực sự tăng lên trong bài văn. Bằng cách sử dụng hai cụm từ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã cho thấy đức hi sinh cao cả của bà Tú, đó là chấp nhận số phận để chăm sóc chồng con và mình. Chiếc ô. Dù mưa hay nắng, đừng bỏ cuộc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú nói riêng và của người phụ nữ nói chung, đó là đức tính cần cù, dũng cảm, nhẫn nhịn, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn, kính trọng đối với bà Tú.

Cùng với sự kính trọng, biết ơn đối với bà Tú trong hai câu kết, hai câu cuối là một cách nói tình cảm của tác giả - Tú Xương. Tiếng thở dài về “lối sống” mà ông nhắc đến chính là xã hội lúc bấy giờ - một xã hội nửa tây, nửa tây, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng, đạo đức suy thoái. Bên cạnh, ông tự trách mình tại sao đi thi “ăn bạc” mà không đỗ đạt, không làm quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải khổ vì mình. Cuối cùng, tất cả được tóm gọn trong tiếng than buồn của Tú Xương

“Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tóm lại, Thương vợ là một bài thơ hay, có giá trị cảm xúc mạnh mẽ của Tú Xương. Cái hay ở cách dùng từ, dùng hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bức thư đầy cảm xúc thực, lời thơ giản dị mà sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, kính trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện những đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng.

19. Phân tích bài Thương vợ của Trần Tế Xương, bài văn mẫu số 19:

Thơ Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Một số hoàn toàn là châm biếm, một số hoàn toàn là trữ tình. Tuy nhiên, hai mảng không hoàn toàn tách biệt. Thường trào phúng sâu sắc nhưng vẫn đậm chất trữ tình. Mặt khác, trữ tình úp thìa còn pha chút hài hước trong thói quen trào phúng. Thương vợ là một bài thơ tương tự.
Thương vợ là đoạn thơ tái hiện hình ảnh bà Tú cần lao, dũng cảm, hi sinh thầm lặng vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình yêu, sự kính trọng và biết ơn của Tú Xương đối với vợ.

Làm ăn quanh năm ở sông mẹ,
Nuôi năm đứa con với một người chồng.

Chỉ bằng vài từ ngữ mộc mạc, giản dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bà Tú một mình gồng gánh gánh nặng gia đình, lội nơi đầu sông, bến chợ.

Mom sông là phần đất nhô ra của sông, cũng là một địa danh ở phía bắc thành phố Nam Định. Xưa kia, đây là nơi trên bến dưới thuyền, dân tứ xứ đổ về làm ăn. Quanh năm, bà Tú đi làm thuê ở đó để kiếm tiền trang trải cuộc sống cho gia đình gồm vợ chồng bà và 5 đứa con thơ.

Kinh doanh quanh năm có nghĩa là không có ngày nghỉ. Hơn nữa, từ mẹ sông làm nổi bật vị trí bấp bênh và không ổn định của doanh nghiệp. Mẹ sông ba mặt là nước, có thể đổ ra sông lúc nào không biết. Ở mảnh đất bấp bênh ấy, hình ảnh bà Tú như nhỏ bé, hiu quạnh. Một mình nàng phải lao vào nguồn sóng, tội nghiệp biết bao! Trên đây là thời gian, không gian và tính chất kinh doanh của chị Tú.

Tại sao bà Tú lại chấp nhận vất vả như vậy? Tất nhiên là phải nuôi chồng, nuôi con. Xưa kia, xã hội phong kiến ​​giao cho người phụ nữ bổn phận phụng dưỡng, nuôi nấng con cái. Với bà Tú nhất định phải có đạo thờ chồng. Thờ chồng bao hàm cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó là sự bất công của xã hội, nhưng xét về đức hạnh, sự tháo vát của những người vợ như bà Tú thì quả là đáng kinh ngạc.

Điều khác thường trong bài thơ là cách đếm người. Nếu tính cả sáu miệng ăn và một mình bà phải lo liệu thì nhiều lắm. Hầu hết phụ nữ trên thế giới đều ở trong tình trạng tương tự. Ở đây, tác giả đếm rõ ràng: năm đứa con với một người chồng. Nhất là tách chồng ra tính là một. Xuân Diệu khi đọc câu thơ này đã có một nhận xét rất hay: “Cho nên chồng cũng phải lo, coi như con nhỏ, nên tính ngang hàng với chúng nó: một miệng ăn, hai miệng ăn. ... ".

Mã Bà Tử nuôi chồng không đơn giản như nuôi con. Cơm ngon là vậy, thỉnh thoảng phải có chút rượu để ông ngâm nga câu phú. Áo thì đúng rồi, đi đây đi đó vẫn phải có bộ đẹp, chứ có ai cho đi quanh năm đâu. Lại phải cho anh rủng rỉnh tiền trong túi để đi gặp bạn bè, bè bạn. Thế là chị nuôi đủ, tức là đủ cả về số lượng và chất lượng. Tương tự, bà Tú không chỉ nuôi sống ông Tú mà còn hầu hạ, cúng bái.

Nhưng kể ra những điều này chứng tỏ chồng rất hiểu và trân trọng công lao của vợ. cùng là yêu vợ.

Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình buôn bán càng trở nên cụ thể, rõ nét:

Bơi thân cò nơi vắng,
trên mặt nước vào mùa đông.

Tú Xương sử dụng một hình ảnh quen thuộc trong văn học dân gian về người phụ nữ lao động xưa: Con cò lặn lội bến sông… nhưng ông không so sánh thân phận của chị với thân cò. Thân hình gầy yếu, phải chịu nắng chịu sương, vốn đã neo người, tội nghiệp nên sớm chiều vẫn phải bơi lội. Nghĩa đen của từ này còn gợi lên tất cả những gian nan, vất vả theo nghĩa bóng. Thân cò ấy lại bơi trên đường vắng. Nói đến đường xa, đương nhiên nổi lên nỗi cô đơn, lẻ loi, khi cần không biết nương tựa vào đâu, đó là chưa nói đến những vấn đề nghiêm trọng và bất trắc đối với thân phận người con gái đường xa. Không có cách nào để nói về nó nhiều lần, với một cảm giác không hài lòng. Đò đông có thể hiểu theo hai nghĩa: đò ngang chở đầy người, hai là đò từ những nơi tập trung đông người. Hiểu như thế nào cũng đúng với dụng ý miêu tả gánh nặng, neo đậu trong cảnh đi kiếm ăn của bà Tú.

Bên cạnh sự đau khổ về thể chất còn có sự đau khổ về tinh thần. Vì chồng con mà phải đi nhiều nơi xa, nhưng liệu chồng con có biết không? Còn Bà Tú cứ âm thầm nghĩ đến cùng cho đến hết đời, hết đời... số phận của bà là như vậy.

Câu thơ trình bày đầy chất trữ tình, nghe thật buồn, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm cho nỗi vất vả của vợ và hết mực yêu thương vợ.

Ông Tú hiểu công việc của bà Tú. Khi đường vắng, đò đông, bà làm lụng không kể neo, không lo cho mình, một lòng vì chồng con. Bà Tư ma nghe những lời ấy nói như vậy chắc cũng cảm thấy gánh nặng trên vai nhẹ đi và trong lòng cũng được an ủi ít nhiều.

Nhưng không chỉ vậy, giọng điệu trữ tình được lồng một cách kín đáo trong hai câu trình bày (câu 3, 4) chứng tỏ lòng ông Tú không hề dửng dưng. Tôi thương vợ nhưng cũng tự trách mình. Anh không chỉ tự cho mình là miếng ăn để vợ nuôi mà còn thấy xấu hổ, thấy mình có gì đó vô tâm. Người chồng trụ cột gia đình đâu mà bắt vợ phải vất vả như vậy? Tự trách mình như vậy cũng là yêu vợ sâu sắc hơn.

Một duyên hai nợ,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Tú Xương lại vận dụng một thành ngữ, ca dao khác: Đôi ta là duyên, hai nợ ba tình. Cặp đôi gặp nhau là do ông trời sắp đặt Có duyên thì hạnh phúc, có nợ thì khổ cả đời.

Có lẽ ở đây, ông Tú mượn tâm sự của bà Tú để suy ngẫm hay đúng hơn, ông hóa thân thành bà để đồng cảm sâu sắc hơn: lấy nhau như vậy cũng là duyên hay nợ, phận là thế. phải. Cho nên dù khổ cực đến đâu, nắng mưa gì cũng phải lo liệu, ai dám quản của công. Không còn là vấn đề thân phận, dù là thân cò nhưng đã là vấn đề định mệnh, là vấn đề định mệnh.

Ồ! Lấy chồng người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng! Định mệnh là vậy thì thôi, chứ biết sao đây?! Phận đàn bà như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ đói… Thì dám nói chi khó, dám quản mưa nắng!

Thêm nghĩa của một số nhóm từ dah, dám quản lý. Au phải là một người cực đoan chứ không phải đã, gấp, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản nghĩa là không dám nhắc gì đến công lao, là thái độ chấp nhận mọi gian khổ. Thêm âm nặng của từ thân phận ở cuối câu kết khiến câu thơ càng phù hợp với những cảm xúc dồn nén vào trong.

Vậy là chỉ trong bốn câu thơ mà chân dung bà Tú đã hiện ra trọn vẹn: từ sự vất vả, lăn lộn ngoài đời, đến năm bảy mối lo trong gia đình, từ con người làm ăn, tháo vát. , chịu thương chịu khó, đến một con người đức hạnh, hiếu thảo, đầy ý thức vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người mẹ Việt Nam.

Nếu bạn yêu vợ và nói rằng bạn yêu cô ấy, bạn đã quý rồi. Tại đây, ông Tú đã nhập vào thân xác của bà Tú để hiểu được tâm tư tình cảm của bà và bày tỏ tình cảm của mình bằng những vần thơ chân thực, da diết. Tương tự như vậy, chẳng phải anh ấy rất yêu vợ mình sao?

Đó là thương vợ, còn trách mình? Ngồi nhàn rỗi cả ngày, kiếm miếng cơm cho vợ nuôi, an nhàn thư thái mặc vợ phải ngược xuôi, nghe đâu có chuyện chẳng lành. Giờ đây, người vợ thầm than và tiếc số phận hẩm hiu là do một duyên hai nợ, thử hỏi người chồng sao không nhận ra lỗi của mình? Cùng tự trách mình là ngoài tình thương vợ còn có thêm tinh thần trách nhiệm.

Cha mẹ sống một đời bạc mệnh,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết là lời nguyền rủa thói sống phụ bạc. Chẳng là lần này ông Tư chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng chửi - chửi mình, nhưng thực ra là chửi đời: Người đói, ta cũng không no, Cha ai có, tiếc không cho. Chỉ khác là lần này, lời nguyền ném thẳng vào sinh mệnh, nhưng trước hết, nó ném vào bạn. Tự trách mình, anh phải nguyền rủa. Má phải nhét cái câu chửi đó vào mồm bà Tư mới đúng! Nhưng bà Tú, con nhà gia giáo, nào có bao giờ chua ngoa, thô tục như vậy, dám chửi chồng. Nhưng với ông Tú, ông tự trách mình đến mức phải thốt ra những lời chửi rủa như vậy, ông thực sự giận bản thân mình. Bài thơ ông viết nhằm bày tỏ tình yêu thương, kính trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là kẻ tầm thường, không có trò.

Bà Tú làm việc vất vả như vậy, ông Tú trách mình như vậy đương nhiên phải giận mắng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, tự rủa mình bằng tiếng chửi mới đáng tội, ông Tú không dè bỉu mà dùng câu chửi dân gian: Cha mẹ thói đời.
Bà Tú không coi chồng mình là kẻ bạc tình cờ bạc nhưng ông Tú lại gọi đích danh ô sin của mình, vợ chồng là thế thì còn gì bằng, chứ ông Tú không nói thẳng là sống bằng bạc. mā khái quát nó thành thói quen sống. Lối sống đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị lại càng tệ hơn. Thế là đệ tử của nhà hiền triết là ông Tư Mã cũng bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu đó của người đời. Tương tự, từ xấu hổ, ông Tú đi đến chỗ tủi thân, tự trách.

Bản án cuối cùng là bản án vô cùng đau đớn nhưng cũng rất công bằng, ông Tú tự mắng mình là kẻ bạc tình nhưng xét cho cùng bạc chỉ ở mức độ bàng quan. Dửng dưng trước việc nhà, trước bao lo toan, vất vả, trước thái độ đảm đang của vợ. Đã là vợ chồng thì trăm thứ phải lo. Ba Tú không bắt anh phải vất vả như cô mà chỉ mong anh đừng vô tâm, lo cho gia đình một chút, trước hết là anh hiểu cô, với cô như vậy là đủ. để sưởi ấm trái tim cô và có niềm vui.

Cả bài thơ cô đọng ở ý này: ở câu đề, người chồng có mặt như miếng cơm manh áo, ở câu thực, ở bài văn, người chồng vắng bóng. Bài thơ kết thúc với sự day dứt, tiếc nuối ở câu kết: Có chồng hờ cũng như không càng làm tăng thêm nỗi xót thương của nhà thơ đối với người vợ của mình. Tú Xương nói thế đấy, nói gì là hùng hổ nói đến cùng. Tuy nhiên, có một điều anh đã tự nói oan cho mình: đó là hai chữ dửng dưng. Vì giận bản thân nên anh mới nói thế chứ thật lòng anh không hề thờ ơ với cô. Bởi nếu ông thờ ơ thì đã không có một bài hát Thương vợ da diết và xúc động tương tự.

Xem thêm: notice period là gì

Mời các bạn tham khảo thêm những thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn bản của HoaTieu.vn.